Quyết định giám đốc thẩm số 42/2024/DS-GĐT ngày 14/6/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử vụ án dân sự về "Tranh chấp phân chia quyền sử dụng đất"

Quyết định giám đốc thẩm số 42/2024/DS-GĐT ngày 14/6/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử vụ án dân sự về "Tranh chấp phân chia quyền sử dụng đất"

Nội dung sửa án:

Việc mua bán, chuyển nhượng thửa đất diễn ra từ năm 2001, nhưng sau đó mấy năm, ông Trần Viết Đ lại tự ý nhờ cụ Võ Văn K, cụ Đoàn Thị K1 xác nhận việc góp vốn mua chung đất, với số tiền ông Đ góp vốn là 13.000.000 đồng, ông Phạm Viết H1 góp vốn là 7.000.000 đồng mà không được sự đồng ý của ông Phạm Viết H1; trường hợp, nếu có việc góp vốn để mua chung đất, thì phải là sự thỏa thuận giữa ông Phạm Viết H1 và ông Trần Viết Đ. Như vậy, Giấy nhận tiền mà ông Trần Viết Đ nhờ người chuyển nhượng đất xác nhận lại không phải là chứng cứ để chứng minh việc hai bên góp vốn để nhận chuyển nhượng chung thửa đất như ông Đ đã trình bày. Ngoài ra, ông Đ cho rằng có việc góp vốn từ năm 2001, nhưng đến năm 2018 mới phát sinh tranh chấp là không phù hợp với thực tế.

Do lời khai của nguyên đơn, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mâu thuẫn với nhau, mâu thuẫn với chính lời khai của mình về việc mua bán đất, nên chỉ có thể căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để giải quyết. Bị đơn (ông Phạm Viết H1) có đầy đủ chứng cứ chứng minh việc nhận chuyển nhượng đất của mình và sau khi nhận chuyển nhượng, bị đơn quản lý, sử dụng đất ổn định và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng quy định của pháp luật; còn ông Trần Viết Đ chỉ có duy nhất Giấy xác nhận đề ngày 08-10-2001 của người chuyển nhượng đất, nhưng không có sự xác nhận của ông Phạm Viết H1 và không được ông H1 thừa nhận.

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để khẳng định ông Phạm Viết H1 là người nhận chuyển nhượng thửa đất của cụ Võ Văn K, cụ Đoàn Thị K1 và khi nhận chuyển nhượng, ông H1 là người trực tiếp đưa tiền cho hai cụ. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, mà chỉ dựa vào nội dung tại Giấy xác nhận đề ngày 08-10-2001, lời khai không thống nhất của nguyên đơn (ông Trần Viết Đ, bà Trần Thị M) và lời khai không thống nhất của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông Võ Thành P) làm chứng cứ để xác định giữa ông Trần Viết Đ, bà Trần Thị M với ông Phạm Viết H1 cùng chung nhau nhận chuyển nhượng thửa đất số 144, tờ bản đồ số 22, tại phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng của cụ Võ Văn K và cụ Đoàn Thị K1, từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xác định ông Trần Viết Đ có góp 65% giá trị thửa đất là không đủ cơ sở, không đánh giá các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án một cách khách quan, toàn diện và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn (ông Phạm Viết H1).

Góp ý