Quyết định giám đốc thẩm số 02/2019/LĐ-GĐT ngày 30/8/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử vụ án lao động về “Tranh chấp yêu cầu hủy Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và yêu cầu bồi thường thiệt hại”
Nội dung hủy án:
1. Quá trình giải quyết vụ án,các bên đương sự cùng khai bà Nh vào làm việc tại Nhà khách T từ tháng 10/2010, Nhà khách ký hợp đồng lao động với bà Nh nhiều lần, lần cuối cùng vàongày 01/11/2015, thời hạn hợp đồng là 3 năm. Căn cứ theo khoản 2 Điều 22 Bộ luật Lao động quy định: “Khi hợp đồng lao động quy định tại điểm b và c khoản 1 Điều này hết thời hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết thời hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới, nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạnvà hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này trởthành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng. Trường hợp hai bên ký hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng được ký thêm 01 lần, sau đó nếu ngườilao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn”; nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại nhận định do các bên tự nguyện ký và thực hiện hợp đồng (ngày 01/11/2015) có thời hạn là 3 năm nên xác định là hợp đồng lao động có thời hạn; xét thấy nhận định này là không đúng, cho dù các đương sự thỏa thuận ký hợp đồng có thời hạn nhưng nếu thỏa thuận đó trái pháp luật thì điều khoản về loại hợp đồng vẫn bị coi là vô hiệu. Lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm phải thu thập tài liệu, chứng cứ, cụ thể là các hợp đồng lao động ký kết trước đó để làm rõ lời khai của các bên đương sự, từ đó kết luận trong bản án đối với hợp đồng lao động phát sinh tranh chấp là hợp đồng không xác định thời hạn hay hợp đồng xác định thời hạn.
2. Tòa án cấp phúc thẩm không đánh giá đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ như đã phân tích trên mà nhận định bà Nh chỉ yêu cầu xem xét trong thời gian không làm việc là 9 tháng là không thỏa đáng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nh. Đối với khoản tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, Tòa án cấp phúc thẩm tính thành số tiền và buộc Nhà khách trả trực tiếp cho bà Nh là không phù hợp, trái với bản chất của quan hệ bảo hiểm trên và nguyên tắc thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm của người lao động, mà chỉ cần tuyên buộc người sử dụng lao động (Nhà khách T ) phải thực hiện việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động (bà Lê Thị Thu Nh ) trong thời gian người lao động không được làm việc, theo quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; bảo hiểm xã hội bảo hiểm xã hội cho người lao động.