1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở pháp lý giải quyết tranh chấp chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1.1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Trong quá trình vợ chồng chung sống, ngoài tình cảm thì giữa vợ chồng còn cần có tài sản chung, tài sản chung được coi là một điều kiện không thể thiếu để duy trì mối quan hệ vợ, chồng. Tài sản theo nghĩa Từ điển tiếng việt là của cải, vật chất dùng vào mục đích sản xuất và tiêu dùng, theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” (Điều 105).
Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng, là hình thức sở hữu chung đặc biệt. Xuất phát từ quan hệ hôn nhân, sự tồn tại của chế độ tài sản chung vợ chồng phụ thuộc vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân và chấm dứt khi một trong hai vợ chồng chết hoặc có bản án, quyết định của Tòa án cho vợ chồng ly hôn. Tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ, chồng tạo ra do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung và những tài sản vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung, quyền sử dụng đất của vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Khác với tài sản chung đơn thuần, tài sản chung vợ, chồng có nguồn gốc tạo ra từ thời kỳ hôn nhân, có thể là do vợ, chồng lao động tạo ra hoặc từ những hành vi pháp lý diễn ra trong thời kỳ hôn nhân (thỏa thuận tài sản riêng trở thành tài sản chung, thừa kế, tặng cho).
Từ xưa đến nay, cha ông ta vẫn nói “Của chồng công vợ”, tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết do hai vợ, chồng trực tiếp tạo ra hoặc tạo ra ngang bằng nhau. Tài sản chung có thể chỉ do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, quy định này thể hiện sự gắn kết “Như hai mà một” của quan hệ hôn nhân Đây là điểm khác biệt của tài sản chung vợ chồng so với các tài sản chung theo phần khác. Tài sản chung vợ, chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất, khi vợ, chồng chưa phân chia tài sản thì không xác định được tỷ lệ tài sản của mỗi người.
Khi hai bên thỏa thuận phân chia xong hoặc có quyết định phân chia của Tòa án thì phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung mới được xác định. Đây là điểm khác biệt đặc trưng của tài sản chung vợ, chồng so với các tài sản chung theo phần. Vợ, chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tài sản chung vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo quyết định của Toà án.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định cụ thể các căn cứ xác lập tài sản chung vợ chồng như sau: 1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. 2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. 3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung (Điều 33).
Từ những phân tích trên, có thể hiểu rằng “Tài sản chung vợ chồng là những tài sản được hình thành hoặc tạo ra phù hợp với những căn cứ xác lập tài sản chung vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình”.
1..2. Khái niệm giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Ly hôn là sự kiện làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ, đồng thời với sự chấm dứt quan hệ hôn nhân thì chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng chấm dứt kể từ thời điểm ly hôn. Khi ly hôn do có sự mâu thuẫn về quan hệ tình cảm nên vợ chồng khó tìm được tiếng nói chung trong việc phân chia tài sản chung từ đó dễ xảy ra tranh chấp chia tài sản chung.
Theo Từ điển tiếng Việt thì tranh chấp được hiểu là sự tranh giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào. Tranh chấp về tài sản vợ chồng thường xảy ra chủ yếu và gần như đồng thời cùng với việc ly hôn, điều này là hợp lý bởi lẽ khi ly hôn thì vợ chồng đã có sự sứt mẻ về tình cảm, sự yêu thương, gắn bó “yêu nhau củ ấu cũng tròn” trong thời kỳ hôn nhân không còn nên cùng với việc ly hôn họ sẽ có sự tranh giành, hơn thua nhau trong vấn đề phân chia tài sản. Việc tranh chấp về chia tài sản chung có thể diễn ra cùng với việc vợ, chồng xin ly hôn hoặc có thể diễn ra sau khi vợ chồng đã ly hôn do thời điểm ly hôn vợ, chồng không yêu cầu giải quyết về tài sản chung mà để họ tự thỏa thuận nhưng sau đó họ không tự thỏa thuận được. Việc vợ chồng tranh chấp về tài sản đồng thời với việc ly hôn hoặc sau khi ly hôn đều được coi là tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn chủ yếu là các nội dung sau đây:
- Tranh chấp về việc xác định tài sản chung hay tài sản riêng, đây là dạng tranh chấp phổ biến nhất (vì dụ như tài sản do vợ, chồng tạo lập được trong thời kỳ hôn nhân như nhà, đất nhưng trong giấy tờ mua bán hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng chỉ đứng tên vợ hoặc chồng; tài sản là của bố mẹ vợ hoặc chồng cho vợ chồng nhưng khi ly hôn thì bố mẹ lại thay đổi là chỉ cho con trai hoặc con gái hoặc cha mẹ đòi lại; tài sản riêng vợ chồng có trước khi kết hôn nhưng lại đưa vào sử dụng chung trong thời kỳ hôn nhân).
- Tranh chấp về việc xác định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng hay của gia đình (trong trường hợp vợ chồng sống chung cùng gia đình mà ly hôn).
- Tranh chấp về việc phân chia hiện vật.
- Tranh chấp về việc thỏa thuận giá trị tài sản tranh chấp.
- Tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với người thứ ba.
Khi vợ chồng tranh chấp về chia tài sản chung thì họ khó thỏa thuận thống nhất trong việc phân chia tài sản chung nên cần có một cơ quan Nhà nước có đủ thẩm quyền tiến hành giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc giải quyết ly hôn và chia tài sản chung của vợ chồng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Khi vợ, chồng có đơn gửi đến Tòa án yêu cầu giải quyết ly hôn và cùng với việc giải quyết ly hôn họ yêu cầu giải quyết về tài sản thì Tòa án sẽ tiến hành thụ lý vụ án, thực hiện các thủ tục, quy trình tố tụng đã được pháp luật quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự như lấy lời khai, thu thập chứng cứ, hòa giải, định giá, mở phiên tòa (nếu hòa giải không thành)...Các bước tố tụng này giúp Tòa án có thể xem xét, đánh giá chứng cứ, cân nhắc kỹ, quyết định về tính hợp pháp, hợp lý trong lời khai, chứng cứ do các bên đưa ra. Nếu đủ cơ sở pháp lý xác định tài sản tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng thì Tòa án căn cứ vào quy định của Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành để giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng.
1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn dựa trên một cơ chế phân chia đặc biệt. Về nguyên tắc chung, nếu vợ chồng không lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận, không có thỏa thuận khác, việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện trên nguyên tắc chia đôi; việc tính toán công sức đóng góp đối với tài sản chung chỉ mang tính ước lượng tương đối mà không căn cứ trên cơ sở số học một cách tuyệt đối như các trường hợp sở hữu chung theo phần.
Theo từ điển luật học “chia tài sản chung của vợ chồng là phân chia tài sản chung của vợ chồng thành từng phần thuộc sở hữu riêng của vợ và của chồng”.
Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng đối với tài sản chung bắt đầu từ khi quan hệ hôn nhân được xác lập và được thực hiện trong suốt thời kỳ hôn nhân. Tùy thuộc vào việc lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp định hoặc chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận – hôn ước mà xác định căn cứ pháp lý điều chỉnh việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Từ những phân tích trên có thể thấy: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là việc xác định phần quyền sở hữu của vợ, chồng trong khối tài sản chung của vợ chồng được chia. Sau khi phân chia tài sản chung, quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng đối với khối tài sản chung chấm dứt; vợ, chồng có quyền sở hữu riêng đối với phần tài sản đã được chia.
Chia tài sản khi vợ chồng ly hôn nhằm tạo điều kiện cho các bên tạo lập cuộc sống mới sau khi ly hôn, đảm bảo công bằng giữa vợ và chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản.
2. Phương thức và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
2.1. Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Ly hôn sẽ làm chấm dứt chế độ tài sản chung của vợ chồng. Việc chia tài sản chung là điều kiện cần thiết đảm bảo điều kiện sống của mỗi bên sau khi ly hôn. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân, nhưng nó không thể thiếu khi hôn nhân thực sự tan vỡ, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Thời điểm chấm dứt hôn nhân chứa đựng ý nghĩa pháp luật quan trọng vì thông qua thời điểm chấm dứt hôn nhân giúp xác định thời điểm chấm dứt các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản, giải quyết con chung giữa vợ chồng. Về nguyên tắc, thời điểm chấm dứt quan hệ hôn nhân cũng là thời điểm chấm dứt quan hệ tài sản vợ chồng. Tòa án giải quyết ly hôn khi giữa hai bên đã tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chính vì vậy, trong đề tài này, tác giả chỉ đề cập đến việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, tức là giữa các bên vợ chồng tồn tại quan hệ hôn nhân được pháp luật thừa nhận.
Để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, pháp luật Hôn nhân và gia đình đã quy định về phương thức phân chia cũng như các nguyên tắc của việc phân chia này.
Thứ nhất, phương thức tự thỏa thuận:
Tại khoản 1 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định: “Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận”.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung chế độ tài sản theo thỏa thuận. Theo quy định tại Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn. Tại Điều 48 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm: “Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng: quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan, tài sản để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình; điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản…”. Thỏa thuận này vẫn có thể được sửa đổi, bổ sung sau khi kết hôn hoặc bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo quy định tại Điều 49 và 50 của Luật này. Quy định này góp phần giảm thiểu sự tranh chấp tài sản sau ly hôn của các cặp vợ chồng trong tình trạng hiện nay.
“Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận…
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó;…” (Khoản 1 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014).
Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đề cao ý chí của các bên, quyền tự định đoạt của vợ chồng. Tuy nhiên, về nguyên tắc việc tự thỏa thuận này không được trái với những nguyên tắc mà pháp luật đã quy định để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên, nhất là của phụ nữ và con cũng như tránh sự lợi dụng những quy định này nhằm mục đích tư lợi, không lành mạnh của vợ chồng. Trường hợp các bên thỏa thuận được về chia tài sản cùng với việc tự nguyện ly hôn và việc nuôi dưỡng, chăm sóc con cái trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của vợ và con thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn theo quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Trường hợp các bên không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, quy định thỏa thuận phân chia tài sản khi ly hôn còn giúp các bên tiết kiệm được thời gian và tiền bạc hơn so với yêu cầu Tòa án giải quyết, giúp cho việc chia tài sản được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả, tránh được những tranh chấp và mâu thuẫn. Pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam không những thừa nhận quyền tự thỏa thuận phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn mà còn khuyến khích các bên thực hiện theo phương thức này.
Thứ hai, phương thức yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn:
Nhà nước và pháp luật luôn luôn khuyến khích và tôn trọng sự thỏa thuận của giữa vợ chồng khi chia tài sản chung. Tuy vậy, không phải lúc nào vợ chồng cũng thể thỏa thuận được vấn đề này. Nhất là khi cuộc sống hôn nhân tan vỡ, tình yêu không còn, đôi khi lại ẩn chứa nhiều mâu thuẫn, xung đột gay gắt khiến cho họ tranh chấp quyết liệt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “…Nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại khoản 2,3,4,và 5 Điều này và tại các Điều 60,61,62,63, và 64 của Luật này.
…nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2,3,4 và 5 Điều này và tại các Điều 60,61,62,63 và 64 của Luật này để giải quyết”.
Phương thức này nhờ Tòa giải quyết khi các bên lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận nhưng thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng hoặc vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo luật quy định nhưng không thỏa thuận được. Khi giải quyết, Tòa án cũng phải tuân thủ những nguyên tắc và các trường hợp cụ thể quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình.
2.2. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Nếu vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản chung của vợ chồng theo thỏa thuận (có thỏa thuận tài sản) thì khi ly hôn việc phân chia tài sản theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, không rõ ràng thì áp dụng các quy định tương ứng của luật định để phân chia (Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014).
Trường hợp, chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản sẽ ưu tiên, căn cứ trên cơ sở thỏa thuận của các bên. Pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản của vợ chồng và cho phép vợ chồng tự thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng. Pháp luật ghi nhận việc chia tài sản chung như thế nào trước hết phụ thuộc vào ý chí của các bên. Pháp luật cho phép các bên được tự do ý chí, nhưng việc thỏa thuận phải được thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật. Thỏa thuận chia tài sản khi ly hôn cũng chính là một giao dịch dân sự, vì vậy nó phải đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định (Điều 117, Điều 119 Bộ luật dân sự 2015). Ngoài ra, do tính chất đặc trưng của quan hệ hôn nhân và gia đình nên nó có một số đặc điểm riêng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động không có tài sản riêng để nuôi sống mình.
Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế định tài sản theo thỏa thuận thì theo quy định tại Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình, thỏa thuận này phải được lập thành văn bản trước khi đăng ký kết hôn. Văn bản này phải được công chứng hoặc chứng thực. Vì vậy, nếu vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận; trong thỏa thuận tài sản có nội dung phân chia tài sản khi ly hôn. Khi ly hôn, việc phân chia tài sản thực hiện theo nội dung thỏa thuận tài sản này.
Nếu không thỏa thuận được thì khi có yêu cầu của vợ, chồng hoặc của cả vợ chồng Tòa án giải quyết phân chia theo nguyên tắc sau: Về cơ bản tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố:
Một là, hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
Hai là, công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập.
Ba là, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.
Bốn là, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng;
Năm là, tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị. Bên nào nhận được phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Sáu là, tài sản riêng của vợ chồng thuộc quyền sở hữu riêng của người đó trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Bảy là, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình (Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Tài sản có thể là vật chia được, có thể là vật không chia được. Vì vậy, luật cũng quy định nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng “Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch (khoản 3 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014). Quy định này góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những hệ quả xấu khi chia tài sản chung của vợ chồng, việc chia tài sản chung của vợ chồng có thể chia bằng vật hoặc theo giá trị, nếu chia bằng vật thì phải đảm bảo vật phải sử dụng được sau khi chia.
Trên thực tế, không phải tài sản nào cũng có thể chia, chia ra được các phần đồng đều mà giá trị sử dụng vẫn được bảo đảm. Điều này dẫn đến, có trường hợp không chia được tài sản bằng hiện vật hoặc chia tài sản thành các phần nhưng giá trị của mỗi phần không bằng nhau. Vì vậy, pháp luật quy định bên nhận tài sản có giá trị lớn hơn phải có nghĩa vụ thanh toán phần chên lệch của tài sản đó cho bên còn lại góp phần bảo đảm công bằng cho các bên. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định chính xác giá trị của một tài sản không phải đơn giản. Vì vậy, khó tránh khỏi tranh chấp giữa các bên khi cho rằng việc định giá giá trị của tài sản là không thỏa đáng.
Để giảm bớt tranh chấp giữa các bên khi phân chia tài sản chung của vợ chồng, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn tại Mục 12 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP: “việc xác định giá trị khối tài sản chung của vợ chồng hoặc phần giá trị mà họ phải thanh toán, họ được hưởng là căn cứ vào giá giao dịch thực tế tại địa phương vào thời điểm xét xử”. Việc quy định này tạo điều kiện cho đường lối xét xử của các Tòa án được thống nhất, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của các bên một cách công bằng nhất có thể.
Trên thực tế, việc xác định được giá trị của một tài sản theo giá giao dịch thực tế tại địa phương vào thời điểm xét xử không phải lúc nào cũng dễ dàng.
Thứ nhất, không phải tài sản nào, tại địa phương nào cũng thường xuyên có sự giao dịch. Các tài sản tuy cùng loại nhưng giá trị giao dịch lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố: khấu hao tài sản, địa điểm của tài sản (đối với bất động sản)…mà giá giao dịch trên thực tế cũng rất phức tạp. Đây là các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định giá trị tài sản chung của vợ chồng cần phải phân chia khi Tòa án tiến hành định giá.
Thứ hai, nếu một bên nhận được hiện vật có giá trị có lớn hơn, phải thanh toán phần chênh lệch cho bên còn lại nhưng họ cố tình không thanh toán hoặc không có khả năng thanh toán thì bên nhận phần tài sản có giá trị thấp hơn hoặc không nhận được tài sản sẽ bị thiệt thòi trên thực tế. Điều này dẫn đến tranh chấp, mẫu thuẫn kéo dài.
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng tại Điều 37. Đây là quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Trước đây, luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ đề cập đến vấn đề thanh toán nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng “Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết” (khoản 3 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình 2000).
Tại khoản 1 Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác”. Quy định này góp phần làm cho luật chuyên ngành phù hợp với quy định của luật chung – Bộ luật Dân sự.
Nếu chỉ căn cứ vào thỏa thuận của hai vợ chồng, người về nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng, nhưng người có quyền tương ứng - người thứ ba không đồng ý với thỏa thuận đó thì dẫn đến mâu thuẫn với quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 về thực hiện nghĩa vụ dân sự liên đới. Người có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Nếu vợ chồng thỏa thuận cho bên thực hiện toàn bộ nghĩa vụ mà không có sự đồng ý của bên thứ ba – bên có quyền thì thỏa thuận này có thể ảnh hưởng đến quyền của bên thứ ba.
ThS. Đinh Thị Thu Hương – Phó Chánh Văn Phòng – Học viện Toà án, Toà án nhân dân tối cao