
Đối thoại giữa chính quyền địa phương cấp xã với Nhân dân được tổ chức như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Cơ chế tổ chức đối thoại giữa chính quyền địa phương cấp xã và Nhân dân được quy định và thực hiện như thế nào? Trách nhiệm tổ chức của các cơ quan, tổ chức liên quan được phân công như thế nào nhằm đảm bảo quyền tham gia quản lý nhà nước của Nhân dân ở địa phương theo quy định pháp luật hiện hành?
MỤC LỤC
2. Đối thoại giữa chính quyền địa phương cấp xã với Nhân dân được tổ chức như thế nào?
Trả lời:
1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và việc tổ chức được thực hiện ra sao?
Căn cứ theo Điều 111 Hiến pháp năm 2013 được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 203/2025/QH15 ngày 16/6/2025 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về chính quyền địa phương như sau:
“Điều 111
1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức ở đơn vị hành chính phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo do Quốc hội quy định.
3. Chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định khi thành lập đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đó.”
Đồng thời tại Điều 2 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 (Luật số: 72/2025/QH15) có hiệu lực từ ngày 16/6/2025 cũng có quy định như sau:
“Điều 2. Tổ chức chính quyền địa phương
1. Chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính quy định tại khoản 1 Điều 1 của Luật này, trừ đơn vị hành chính quy định tại Điều 28 của Luật này, là cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
2. Chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định khi thành lập đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đó.”
Dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 1 và Điều 28 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 (Luật số: 72/2025/QH15) quy định như sau:
“Điều 1. Đơn vị hành chính
1. Đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức thành 02 cấp, gồm có:
a) Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);
b) Xã, phường, đặc khu trực thuộc cấp tỉnh (sau đây gọi chung là cấp xã).
Xã là đơn vị hành chính ở nông thôn; phường là đơn vị hành chính ở đô thị; đặc khu là đơn vị hành chính ở một số hải đảo có vị trí quan trọng được thành lập phù hợp với điều kiện địa lý, tự nhiên, đặc điểm dân cư và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.”
và
“Điều 28. Về tổ chức chính quyền địa phương ở đặc khu trong trường hợp đặc thù
1. Tại đặc khu có dân số thường trú dưới 1.000 người thì không tổ chức cấp chính quyền địa phương, Ủy ban nhân dân đặc khu là cơ quan hành chính nhà nước, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, thực hiện vai trò của chính quyền địa phương tại đặc khu này.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc Ủy ban nhân dân đặc khu quy định tại khoản 1 Điều này do Chính phủ quy định phù hợp với các nguyên tắc của Luật này.”
Cụ thể, tại các đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp xã, chính quyền địa phương được tổ chức đầy đủ với hai cơ quan: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Mô hình tổ chức này phản ánh tính dân chủ đại diện và tính điều hành quản lý hành chính thống nhất của Nhà nước.
Đối với các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, việc tổ chức chính quyền địa phương không theo khuôn mẫu cố định mà được Quốc hội quyết định theo từng trường hợp cụ thể, nhằm tạo điều kiện áp dụng các cơ chế quản trị đột phá, phù hợp với đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội, vị trí chiến lược và yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Đáng lưu ý, trong trường hợp đặc khu có dân số thường trú dưới 1.000 người, thì không tổ chức cấp chính quyền địa phương như thông thường, mà chỉ thành lập Ủy ban nhân dân đặc khu – là cơ quan hành chính nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định, thực hiện toàn bộ chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương tại địa bàn đó. Điều này cho thấy sự linh hoạt trong tổ chức bộ máy, đồng thời đảm bảo tính thực tiễn và khả năng thích ứng cao của hệ thống chính quyền địa phương trước các điều kiện dân cư, địa lý và yêu cầu phát triển khác nhau.
Như vậy, tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay không chỉ kế thừa mô hình truyền thống “Hội đồng – Ủy ban” mà còn mở rộng khả năng điều chỉnh linh hoạt theo đặc thù của từng loại hình đơn vị hành chính, góp phần hoàn thiện thể chế nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lượng quản trị địa phương trong bối cảnh phát triển và hội nhập.
2. Đối thoại giữa chính quyền địa phương cấp xã với Nhân dân được tổ chức như thế nào?
Căn cứ theo Điều 43 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 (Luật số: 72/2025/QH15) có hiệu lực từ ngày 16/6/2025 quy định như sau:
“Điều 43. Đối thoại giữa chính quyền địa phương cấp xã với Nhân dân
1. Ít nhất mỗi năm một lần hoặc khi có ít nhất 10% tổng số cử tri của cấp xã yêu cầu hoặc trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương cấp xã tổ chức hội nghị đối thoại với Nhân dân thông qua hình thức trực tiếp, trực tuyến hoặc thông qua mạng xã hội hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật để trao đổi về tình hình hoạt động của chính quyền địa phương và những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân ở địa phương. Trường hợp tổ chức hình thức trực tiếp nếu quy mô đơn vị hành chính cấp xã quá lớn, có thể tổ chức trao đổi, đối thoại với Nhân dân theo từng cụm thôn, tổ dân phố.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tổ chức hội nghị đối thoại quy định tại khoản 1 Điều này, cùng đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp chủ trì hội nghị đối thoại; mời đại diện cấp ủy cùng cấp tham gia hội nghị đối thoại và phải thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng về thời gian, địa điểm, nội dung và cách thức tham dự hội nghị đối thoại với Nhân dân chậm nhất là 07 ngày trước ngày tổ chức hội nghị.
3. Nội dung kết quả hội nghị đối thoại với Nhân dân phải được Ủy ban nhân dân thông báo đến Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở của chính quyền địa phương cấp xã và gửi đến Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố trên địa bàn chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày tổ chức hội nghị.”
Theo đó, việc tổ chức đối thoại giữa chính quyền địa phương cấp xã với Nhân dân là một hình thức dân chủ trực tiếp được luật hóa, nhằm tăng cường sự minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân vào hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương. Theo đó, hội nghị đối thoại được tổ chức ít nhất một lần mỗi năm hoặc theo yêu cầu của tối thiểu 10% cử tri cấp xã hoặc khi có tình huống cần thiết, bảo đảm tính kịp thời và sát với thực tiễn đời sống.
Chính quyền cấp xã có thể tổ chức đối thoại dưới nhiều hình thức như trực tiếp, trực tuyến hoặc qua mạng xã hội hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi, linh hoạt và phù hợp với điều kiện địa phương.
Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc phối hợp tổ chức hội nghị, cùng với sự tham gia của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp, đồng thời mời đại diện cấp ủy cấp xã tham dự, nhằm đảm bảo tính toàn diện và khách quan trong quá trình đối thoại. Việc công khai thông tin về hội nghị ít nhất 07 ngày trước khi tổ chức, cũng như thông báo kết quả đến Nhân dân chậm nhất 10 ngày sau đó, thể hiện yêu cầu nghiêm ngặt về minh bạch, trách nhiệm và thông tin hai chiều giữa chính quyền và người dân.
Như vậy, quy định pháp lý trên không chỉ xác lập cơ chế đối thoại cụ thể mà còn khẳng định vai trò trung tâm của người dân trong quản trị địa phương, qua đó góp phần xây dựng chính quyền “gần dân, hiểu dân và vì dân”, đồng thời bảo đảm thực thi đầy đủ quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân theo Hiến pháp và pháp luật.
Trân trọng./.