Chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp một bên vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố là đã chết

Tóm tắt: Trong bài viết, tác giả phân tích các nguyên tắc, hậu quả pháp lý khi phân chia tài sản chung trong trường hợp một bên vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố là đã chết, từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết các vụ án liên quan.

Abstract: In the article, the author analyzes the principles and legal consequences of division of common property in the event that one of the spouses dies or is declared dead by a court decision, thereby proposing solutions to improve legal regulations, and to create a solid legal corridor during the Court's acceptance and settlement of related cases.

Nếu kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ vợ chồng thì khi vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố là đã chết là sự kiện làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng. Chia tài sản chung của vợ chồng cần phải đặt ra trong trường hợp này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người chồng, người vợ còn sống, quyền và lợi ích của người thừa kế, người có quyền lợi liên quan cũng như tôn trọng di nguyện của người chết để lại di chúc. Tài sản chung của vợ chồng được chia theo yêu cầu của người chồng, vợ còn sống hoặc theo yêu cầu của người thừa kế của người vợ, chồng đã chết. Đối với trường hợp vợ, chồng chết, việc xác định thời điểm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật dựa vào ngày khai tử tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án.

1. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp một bên vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố là đã chết

Nguyên tắc là những tư tưởng chính trị, pháp lý mà pháp luật quy định để hướng các chủ thể tuân theo khi tham gia các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ hôn nhân nói riêng. Trong các mối quan hệ gia đình, quan hệ vợ chồng có vai trò đặc biệt quan trọng. Vợ, chồng chỉ được hưởng di sản thừa kế của nhau tại thời điểm mở thừa kế khi mối quan hệ hôn nhân của họ hợp pháp với tư cách là vợ chồng của nhau. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, theo quy định của pháp luật, điều này đồng nghĩa với việc chấm dứt quan hệ hôn nhân với người còn lại. Khi đó, tài sản sẽ được giải quyết theo nguyên tắc tại Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:

Thứ nhất, khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.

Người vợ hoặc chồng quản lý di sản có nghĩa vụ: Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác; thông báo về di sản cho những người thừa kế; bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ mà gây ra thiệt hại; giao lại tài sản theo yêu cầu của người thừa kế. Bên cạnh đó, người quản lý di sản có quyền được sử dụng di sản nếu được những người thừa kế đồng ý và được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.

Thứ hai, khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.

Như vậy, nếu vợ chồng không có thỏa thuận về chế độ tài sản thì trên cơ sở luật định, tài sản chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất sẽ được chia đôi cho dù tài sản chung của vợ chồng không phải do cả hai vợ chồng cùng trực tiếp tạo ra hoặc tài sản chung của vợ chồng được tạo dựng khi vợ chồng không sống chung mà sống riêng; quyền bình đẳng giữa vợ chồng đối với tài sản chung khi thực hiện quyền sở hữu không bị phụ thuộc bởi công sức đóng góp của vợ chồng. Nguyên tắc chia đôi này đã được quy định trong Bộ Quốc triều Hình luật: “Khi vợ hoặc chồng chết thì điền sản đều được chia đôi mỗi người một nửa” (Điều 374); cũng như tại Điều 94 Sắc luật số 15/64 và Điều thứ 201 Bộ Dân luật năm 1972, theo đó, trường hợp vợ chồng không có hôn ước thì chia theo nguyên tắc: Tài sản của bên nào vẫn thuộc sở hữu của bên đó, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi cho vợ, chồng mỗi người một nửa. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cũng quy định: “Khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi” (Điều 17). Nguyên tắc này không được ghi nhận trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung lỗ hổng này, bảo đảm sự bình đẳng của vợ chồng trong việc tạo lập, phát triển khối tài sản chung, tạo thuận lợi cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh.

Thứ ba, hạn chế phân chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình.

Về nguyên tắc, thời điểm người có tài sản chết là thời điểm mở thừa kế. Kể từ thời điểm này, những người thừa kế có quyền yêu cầu chia di sản. Tuy nhiên, để bảo đảm ổn định cuộc sống của bên vợ hoặc chồng còn sống, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định, trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật Dân sự.

2. Hậu quả pháp lý khi chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp một bên vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố là đã chết

2.1. Về nhân thân

Khi một bên vợ, chồng chết hoặc Tòa án tuyên bố là đã chết thì quan hệ hôn nhân chấm dứt. Khi vợ, chồng chết thì các quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng phát sinh từ khi kết hôn sẽ chấm dứt. Người chồng, vợ còn sống tiếp tục được hưởng các quyền lợi phát sinh từ hôn nhân với người vợ, chồng đã chết mà không phụ thuộc vào việc người đó có lấy vợ, chồng khác hay không: Quyền về họ, tên, dân tộc... Người chồng, vợ còn sống có quyền kết hôn với người khác theo quy định của pháp luật.

Thực tế có trường hợp vì những lý do khác nhau (tai nạn, chiến tranh...) đã không thể xác định được vợ, chồng còn sống hay đã chết. Trong những trường hợp như vậy, nhằm ổn định các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, của những người có quyền, lợi ích liên quan, pháp luật đã quy định những điều kiện, trình tự để chấm dứt tư cách chủ thể của vợ, chồng: Tuyên bố là đã chết. Theo quy định tại Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015, Tòa án tuyên bố một người là đã chết nếu có yêu cầu của những người có quyền hoặc lợi ích liên quan trong trường hợp:

- Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;

- Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;

- Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

- Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống.

Trường hợp người vợ, chồng có quyết định của Tòa án tuyên bố là đã chết, các quan hệ nhân thân của người đó được giải quyết như đối với vợ, chồng chết. Trong trường hợp người vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết quay trở về hoặc có tin tức xác thực người đó còn sống thì theo yêu cầu của chồng, vợ hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người vợ, chồng là đã chết. Khoản 1 Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn; trong trường hợp có quyết định cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trường hợp chồng, vợ của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật.

2.2. Về tài sản

Khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì sẽ phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và pháp luật thừa kế. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. Trường hợp người đã bị Tòa án tuyên bố là đã chết trở về muốn đòi lại tài sản đã chia thì những người đã hưởng thừa kế, được phân chia thừa kế sẽ phải hoàn trả lại cho người đã bị tuyên bố chết mà trở về khi có yêu cầu.

Vấn đề khôi phục chế độ tài sản của vợ, chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết mà lại trở về đã được dự liệu tại khoản 3 Điều 73 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn; trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Khoản 2 Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định quan hệ tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về với người vợ hoặc chồng được giải quyết như sau:

- Trong trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực. Tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực là tài sản riêng của người đó;

- Trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải quyết như chia tài sản khi ly hôn.

Như vậy, với việc xác định tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực là tài sản riêng của người vợ hoặc chồng đã tạo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật.

3. Thực tiễn chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp một bên vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố là đã chết

Thứ nhất, về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố là đã chết:

Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định rõ, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nếu không có thỏa thuận về chế độ tài sản. Điều đó có nghĩa là, việc phân chia tài sản chung không căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên. Tuy nhiên, thực tế vẫn ghi nhận những bản án chia tài sản chung khi vợ, chồng chết áp dụng nguyên tắc này bị sửa, hủy. Vì vậy, cần có quy định pháp luật cụ thể trong trường hợp vợ, chồng chết trước thì tài sản chung được chia như thế nào, có xem xét đến công sức đóng góp của mỗi bên hay không để các Tòa án có cơ sở áp dụng thống nhất.

Thứ hai, về hậu quả pháp lý chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố là đã chết:

Các trường hợp chia tài sản chung khi vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, thực tiễn cho thấy, thông thường, bên còn sống sẽ không yêu cầu chia tài sản mà tiếp tục quản lý, sử dụng để bảo đảm đời sống của gia đình, trừ trường hợp bên vợ, chồng đã chết có để lại di chúc phân chia di sản thừa kế hoặc trường hợp những người thừa kế có tranh chấp yêu cầu phân chia di sản thừa kế thì khi đó tài sản chung của vợ chồng mới được chia.

Điểm a khoản 2 Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực”. Từ đây, phát sinh một vấn đề mà Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chưa dự liệu. Những giao dịch mà người chồng, vợ đã thực hiện với người khác bằng tài sản chung của vợ chồng có được coi là hợp pháp mặc dù không có sự thỏa thuận của bên kia (bị Tòa án tuyên bố là đã chết) hay không? Những khoản nợ mà người chồng, vợ vay của người khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu như nuôi dưỡng, giáo dục con cái, nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc nuôi dưỡng người nào đó thuộc nghĩa vụ chung của vợ chồng có thuộc trách nhiệm liên đới giữa vợ chồng không, người trở về phải gánh chịu một nửa hay là thuộc trách nhiệm của riêng người chồng, vợ đã thực hiện? Bởi khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết thì quan hệ hôn nhân không còn tồn tại, người còn sống xác lập các giao dịch dân sự với tư cách riêng của mình; khi người vợ, chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết trở về, quan hệ hôn nhân của họ lại được phục hồi, khoảng thời gian gián đoạn đó có được coi là vẫn trong “thời kỳ hôn nhân” hay không? Đây là vấn đề cần được dự liệu trong luật để có cơ sở pháp lý giải quyết, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người có liên quan.

4. Một số đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất, trong trường hợp hôn nhân được khôi phục do vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết trở về theo quy định thì quan hệ tài sản chung đương nhiên được khôi phục cùng lúc với việc khôi phục quan hệ hôn nhân mà không cần có thỏa thuận là điều hợp lý. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, khi xác định tài sản chung trong trường hợp này, cần tính đến công sức đóng góp, tôn tạo, giữ gìn và phát triển khối tài sản chung của người còn lại trong thời gian vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết.

Thứ hai, cần có quy định mở để giải quyết chế độ tài sản trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục và tài sản của người được tuyên bố là đã chết trở về đã được giải quyết theo quy định của pháp luật theo các thủ tục ly hôn hoặc thừa kế. Theo đó, để quy định được cụ thể, rõ ràng, cần bổ sung vào khoản 2 Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nội dung cụ thể như sau: “Quan hệ tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về với người vợ hoặc chồng được giải quyết như sau: (a) Trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn; tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực là tài sản riêng của người đó. (b) Trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải quyết như quy định tại Điều 59 của Luật này. (c) Tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về được giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự”.

Tóm lại, khi một cá nhân chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố là đã chết sẽ dẫn đến nhiều hậu quả pháp lý khác nhau như quan hệ nhân thân, quan hệ cha mẹ, con và đặc biệt là hậu quả về mặt tài sản, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của các chủ thể khác nhau trong quan hệ dân sự và nhân thân. Trong bài viết, tác giả làm rõ các nguyên tắc phân chia tài sản chung cũng như hậu quả pháp lý khi chia tài sản trong trường hợp này. Đặc biệt, bài viết thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình đã chỉ ra những khó khăn, bất cập, từ đó, đề xuất hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về việc chia tài sản chung của vợ chồng khi một trong hai bên chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố là đã chết. Trên cơ sở đó, tạo nên căn cứ pháp lý vững chắc, thống nhất giúp cơ quan nhà nước giải quyết các tranh chấp dễ dàng hơn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình.

NCS.ThS. Nguyễn Thị Phương

Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

Góp ý