Nội dung sửa án:
(i) Về nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang cho rằng Tòa án sơ thẩm đã vi phạm trong việc tuyên án không rõ ràng, không đúng yêu cầu khởi kiện của đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy:
Theo đơn khởi kiện, bà Đoàn Thị K, yêu cầu đối với hành vi của Chủ tịch UBND thị trấn Bố H đã thu hồi diện tích 670m2 đất lâm nghiệp tại thửa đất số 329, tờ bản đồ số 12 có địa chỉ tại: Tổ dân phố Tân X, thị trấn Bố H, huyện Y là trái pháp luật. Nhưng phần Quyết định của án sơ thẩm lại ghi: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị K về việc khiếu kiện hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn Bố H (trước đây là xã Bố H), huyện Y đối với thu hồi diện tích 519m2 đất lâm nghiệp, tại thửa đất số 329, tờ bản đồ số 12; ở tổ dân phố Tân X, thị trấn Bố H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang”. Việc tuyên án của Tòa cấp sơ thẩm như trên là không đúng với yêu cầu khởi kiện của bà K, vi phạm Điều 8 của Luật tố tụng hành chính năm 2015.
(ii) Về việc kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang cho rằng Tòa án sơ thẩm đã vi phạm trong việc áp dụng thiếu căn cứ pháp luật, thì thấy:
Tại Quyết định của bản án sơ thẩm đã “Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị K về việc buộc ông Vũ Văn Ph, (nguyên Chủ tịch UBND xã Bố H) phải trả lại diện tích 670m2 đất lâm nghiệp tại thửa đất số 329, tờ bản đồ số 12, địa chỉ: Tổ dân phố Tân X, thị trấn Bố H, huyện Y, tỉnh Bắc Giang”. Nhưng bản án lại không áp dụng Điều 211, Điều 213, Điều 348, Điều 143, Điều 144, khoản 2, Điều 165 Luật tố tụng hành chính là thiếu sót.
(iii) Về việc kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang cho rằng Tòa án sơ thẩm đã thiếu sót khi nhận định, đánh giá chứng cứ:
Tại Phần nhận định của bản án sơ thẩm đã thể hiện các nội dung: “Chủ tịch UBND thị trấn Bố H thu hồi đất của gia đình bà K từ năm 2012, 2017” …“Chủ tịch UBND xã Bố H thực hiện việc thu hồi đất của gia đình bà K là thực hiện theo quyết định số….”, “ Chủ tịch UBND thị trấn Bố H thực hiện việc thu hồi đất của gia đình bà K là đúng quy định của pháp luật”.
Việc nhận định của bản án sơ thẩm như trên là không đúng quy định về thẩm quyền ban hành các Quyết định hành chính: Theo quy định của tại Điều 44 Luật đất đai năm 2003 và khoản 2, Điều 66 Luật đất đai năm 2013 thì thẩm quyền thu hồi đất thì thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện. Chủ tịch UBND xã Bố H (thị trấn Bố H) không có thẩm quyền thu hồi đất; Chủ tịch UBND xã Bố H chỉ thực hiện trình tự, thủ tục về thu hồi đất theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 18 và Điều 21 Luật khiếu nại năm 2011 thì Chủ tịch UBND huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại (lần 1) và Chủ tịch UBND tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại (lần 2 đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần 1). Tuy nhiên, tại phần nhận định của án sơ thẩm đã nêu: “Ngày 16/7/2020 Ủy ban nhân dân huyện Y ban hành Quyết định số 2908/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà K” (trang 9); “Ngày 03/02/2021 Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang ban hành Quyết định số 253/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà K thống nhất với Quyết định số 2908/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân huyện Y về việc giải quyết khiếu nại của bà Đoàn Thị K”.
Việc nhận định nêu trên của bản án sơ thẩm là không đúng theo Điều 18 và Điều 21 Luật khiếu nại năm 2011. UBND huyện Y và UBND tỉnh Bắc Giang không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch UBND huyện Y (giải quyết khiếu nại lần 1) và Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang mới có thẩm quyền giải quyết khiếu nại (lần 2, đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần 1 của Chủ tịch UBND huyện Y).
(iv) Về việc kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang cho rằng Tòa án sơ thẩm đã có một số thiếu sót cụ thể là:
Bản án đã không nêu họ và tên người đại diện theo pháp luật, (hoặc người đại diện theo ủy quyền, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng này là thiếu sót.
Tại phần trích yếu của bản án nêu ý kiến của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã nêu: “Huyện Y trình bầy” là không chính xác mà phải ghi là: UBND huyện Y hoặc Chủ tịch UBND huyện Y do người đại diện theo pháp luật (hoặc do người đại diện theo ủy quyền) đã trình bầy.
Những sai sót nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm mà kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang đã nêu là có căn cứ, cần chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang sửa một phần bản án sơ thẩm đã xử.
(v) Tuy nhiên đối với nội dung kháng nghị đã nêu: “Bản án không trích nêu ý kiến của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị V, sinh năm 1972; anh Trần Thanh H1, sinh năm 1973; anh Trần Duy H2, sinh năm 1984; chị Trần Thị H3, sinh năm 1975; chị Trần Thị H4, sinh năm 1977 là thiếu sót” thì thấy:
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nêu trên đều là con của bà K đều đã được Tòa án giao văn bản tố tụng, nhưng những người này không đến Tòa án làm việc và không có lời khai. Do vậy bản án sơ thẩm không nêu lời khai của những người trên. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm cũng phải rút kinh nghiệm về việc không nêu lý do trong bản án về việc những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có lời khai.