Bản án hành chính phúc thẩm số 02/2022/HC-PT ngày 12/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình về việc khởi kiện hủy quyết định hành chính

30/10/2024
Luật Nghinh Phong
255
0

Nội dung sửa án:   

Về nguồn gốc và quá trình sử dụng thửa đất. Ngày 12/3/1991, ông Võ Văn Q, bà Nguyễn Thị H nhận chuyển nhượng 01 căn nhà cấp 4, 01 căn nhà bếp và công trình phụ nằm trên diện tích khoảng 400m2 (22m x 18,5m) là một phần thửa đất số 70, tờ bản đồ số 37, tại xã L, thị xã Đ của bà Nguyễn Thị D (nay là thửa đất số 08, tờ bản đồ số 31, tại TDP 4, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình). Năm 1993 ông Q, bà H tiến hành làm lại nhà. Ngày 14/4/1993, Ủy ban nhân dân phường N đã xử phạt vi phạm hành chính gia đình ông Q, bà H với lý do đã làm nhà trái phép không có giấy tờ cấp đất. Từ đó đến nay, gia đình ông Q, bà H sử dụng ổn định, không có tranh chấp. Do đó, khi kê khai, đăng ký cấp giấy CNQSDĐ ông Q, bà H cho rằng tại thời điểm chuyển nhượng bà Nguyễn Thị D cho rằng đất bà D là do khai hoang trước năm 1975 và chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp đất, nhưng UBND phường N căn cứ vào Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 16/9/2003 của ông Nguyễn Ngọc N (con trai bà Nguyễn Thị D) kê khai nguồn gốc thửa đất số 70, tờ bản đồ số 37, đứng tên người sử dụng bà Nguyễn Thị D là do UBND xã L cấp tháng 02/1980. Trên cơ sở kê khai của ông N, tại Công văn số 180/UBND ngày 31/8/2018 UBND phường N xác nhận: nguồn gốc đất của ông Q, bà H nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị D ngày 12/3/1991, đất của bà D được Ủy ban nhân dân xã L cấp tháng 02/1980 và Tại Kết luận số 100/KL-TTr ngày 20/8/2019 của Thanh tra thành phố Đ lại căn cứ vào Công văn số 180/UBND ngày 31/8/2018 của UBND phường N và Hồ sơ cấp giấy CNQSDĐ của ông Nguyễn Ngọc N để xác định nguồn gốc thửa đất số 70, tờ bản đồ số 37, đứng tên người sử dụng đất là bà Nguyệt Thị D là do UBND xã L cấp tháng 02/1980. Ngoài ra, tại Công văn số 842/UBND ngày 15/7/2021 của UBND phường N lại căn cứ vào Kết luận số 100/KL-TTr ngày 20/8/2019 của Thanh tra thành phố Đ để xác định nguồn gốc đất của ông Q, bà H nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị D ngày 12/3/1991, đất của bà D được Ủy ban nhân dân xã L cấp tháng 02/1980 và tại Công văn số 09/TTr ngày 17/01/2022 của Thanh tra thành phố Đ. Theo quy định tại điểm b khoản 3 Mục I Chương 3 Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục Địa chính hướng dẫn việc đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy CNQSDĐ quy định: “Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thẩm tra và xác nhận vào đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất về nội dung nguồn gốc sử dụng đất”. Do đó, UBND phường N và Thanh tra thành phố Đ căn cứ vào kê khai của ông Nguyễn Ngọc N (con trai bà Nguyễn Thị D) và hồ sơ đăng ký, kê khai cấp giấy CNQSDĐ của ông Nguyễn Đình Th, bà Nguyễn Thị Ngọc H (nhận chuyển nhượng một phần thửa đất của bà Cao Thị Tr và các con 2005, đất của bà Tr và các con nhận tặng cho của bà Nguyễn Thị D) để xác định nguồn gốc đất của ông Q, bà H nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị D ngày 12/3/1991 là đất được Ủy ban nhân dân xã L cấp tháng 02/1980. Tuy nhiên, ông Nguyễn Ngọc N không phải là chủ sử dụng đầu tiên của thửa đất số 70, tờ bản đồ số 37, mà chỉ là người thừa kế của bà D và đã được UBND thị xã Đ cấp giấy CNQSDĐ vào năm 2004 (giấy CNQSDĐ của ông N đã bị UBND thành phố Đ thu hồi). Việc UBND phường N căn cứ vào kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất của ông N và hồ sơ cấp giấy CNQSDĐ của ông Th, bà H để xác định nguồn gốc thửa đất của bà D là chưa khách quan. Mặt khác, UBND phường N không lưu giữ hồ sơ liên quan đến thửa đất số 70, tờ bản đồ số 37, người đứng tên sử dụng đất bà Nguyễn Thị D được cấp năm 1980. Hơn nữa, tại Công văn số 931/UBND ngày 26/10/2020 của UBND phường N xác nhận trước năm 1990 UBND phường không lưu sổ mục kê, sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính liên quan đến thửa đất số 70, tờ bản đồ số 37 và cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ liên quan đến nguồn gốc thửa đất mà bà D đứng tên người sử dụng đất, mà lại căn cứ vào đơn đăng ký kê khai của ông N (con bà D là người nhận thừa kế của bà D) và hồ sơ cấp giấy CNQSDĐ của ông Th, bà H để xác định nguồn góc đất của bà D là chưa đảm bảo đúng quy định của pháp luật và thực tế sử dụng đất của gia đình ông Q, bà H. Do đó, ngày 21/3/2022 UBND phường N ban hành Công văn số 3637/UBND xác định nguồn gốc thửa đất số 70, tờ bản đồ số 37 là do UBND xã L cấp cho bà Nguyễn Thị D vào tháng 02/1980 là chưa đủ căn cứ. Vì vậy, Tòa án nhân dân thành phố Đ xử bác yêu cầu khởi kiện của ông Q, bà H là chưa phù hợp với quy định của pháp luật.

Từ những phân tích, nhận định trên. Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ và kháng cáo của người khởi kiện ông Q, bà H. Căn cứ khoản 2 Điều 241 Luật tố hành chính. Sửa bản án hành chính sơ thẩm số 02/2022/HC-ST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Q, bà Nguyễn Thị H về yêu cầu hủy Công văn số 3637/UBND ngày 21/3/2022 của Ủy ban nhân dân phường N. Buộc UBND phường N tiếp nhận hồ sơ xác nhận thông tin để xin cấp giấy CNQSDĐ của ông Q, bà H theo quy định tại các Điều 99, 100, 101, 105 Luật Đất đai.

Bài viết liên quan

Góp ý