Nội dung sửa án:
(i) Căn cứ quy định trên, thì UBND xã (phường) có thẩm quyền xác nhận nguồn gốc pháp lý sử dụng đất và tài sản trên đất, làm cơ sở để UBND cấp Quận, huyện, Thành phố thuộc tỉnh, ban hành Quyết định thu hồi đất, Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, Quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;
Đối với Thông báo Thu hồi đất số 1577/TB-UBND-TNMT ngày 29/8/2019 của UBND Quận H chỉ mang tính chất “dự kiến thu hồi đất ”.
Do đó Hành vi của UBND phường T ban hành Giấy xác nhận tình trạng pháp lý nhà đất nêu trên, là hành vi hành chính có ảnh hưởng đến nội dung: Tổ chức, Cá nhân hoặc hộ gia đình bị thu hồi đất, diện tích đất, tài sản bị thu hồi và chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được hưởng;
Hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, theo Điều 3 Luật TTHC. Chấp nhận ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
(ii) Người khởi kiện có tranh chấp về hành vi xác nhận của UBND phường T: ai là người được hưởng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của phần nhà đất số 176 Đường T, phường T, bị thu hồi? cần làm rõ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiển kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, theo hướng: huỷ bỏ cho cá nhân ông Nguyễn Hoàng L; và công nhận các thừa kế của ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị V được hưởng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của phần nhà đất số 176 Đường T, phường T, bị thu hồi.
(iii) Do đó, phần nhà đất bị thu hồi theo dự án mở rộng đường Đường T trên địa bàn phường T, diện tích đất 63,64m2, diện tích xây dựng 63,64m2, chưa được giải quyết bởi Bản án của Toà án.
Xét UBND phường T xác nhận tình trạng pháp lý nhà đất (nêu trên) cho cá nhân ông Nguyễn Hoàng L, là không đúng thực tế và không đúng nguồn gốc xác nhận pháp lý của Văn phòng ĐKĐĐ. Đúng phải thuộc về các thừa kế theo pháp luật của ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị V (các đương sự đều thừa nhận Ông H, bà V chết không để lại di chúc - Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015). Các thừa kế theo pháp luật của Ông H, bà V được hưởng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư từ phần nhà đất 176 Đường T, phường T bị thu hồi theo dự án (Điều 74, 75, 101 Luật đất đai năm 2013)
(iv) Xét Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa ông L với ông Trần Văn Đ, bà Nguyễn Thị Cát Linh:
Nội dung của hợp đồng này là phần diện tích nhà đất được công nhận sở hữu, sử dụng cho ông L theo GCN vào sổ số 754/2002 ngày 23/8/2002, cập nhật biến động sở hữu cho ông L ngày 03/12/2014. Không bao gồm phần nhà đất bị thu hồi theo dự án mở rộng đường Đường T.
Xét vị trí phần nhà đất đã chuyển nhượng từ ông L S ông Đạt bà Linh C, theo GCN, với phần nhà đất chưa được cấp GCN nay bị thu hồi, đều tiếp giáp với hai mặt tiền đường Đường T và đường số 22 (theo Công văn số 1904/CNTPTĐ ngày 21/12/2021 của Văn phòng ĐKĐĐ và thừa nhận của người bảo vệ quyền lợi UBND phường tại Toà).
Suy diễn của UBND phường T về phần nhà đất bị thu hồi, thuộc về ông L (đã bán cho ông Đạt, bà Linh C), nhằm đảm bảo có lối đi ra đường, là không có căn cứ.
(v) Ngoài ra Giấy xác nhận tình trạng pháp lý nhà đất số 05/UBND-XNNDT ngày 18/01/2022 có nội dung thay thế Giấy xác nhận tình trạng pháp lý nhà đất số 643/UBND-XN-NDT ngày 14/01/2022. Do đó đường lối giải quyết của Toà sơ thẩm chỉ tuyên huỷ bỏ Giấy số 05/UBND-XN-DNT, là chưa triệt để.
Từ những phân tích trên, chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ. Chấp nhận ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bà M; sửa một phần án sơ thẩm.