Nội dung sửa án:
(i) Như vậy, UBND cấp xã nơi có đất có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ và xác nhận về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp quyền sử dụng đất và sự phù hợp với quy hoạch. Tại Biên bản xác minh ngày 04/01/2022 về việc trả lời các câu hỏi của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố T gồm: Nguồn gốc và quá trình sử dụng đất; những giấy tờ hợp lệ hoặc hợp pháp kèm theo nguồn gốc đất (nếu có); thửa đất có thuộc đất công do phường quản lý hoặc cơ quan nhà nước quản lý, đất có lấn, chiếm hay không; thửa đất có thông báo thu hồi đất (hoặc quyết định thu hồi đất) chưa; đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không thì phó chủ tịch UBND phường Ph là người trực tiếp ký và không ghi thay mặt UBND là không đúng thẩm quyền, đối chiếu với quy định của pháp luật được viện dẫn nêu trên.
(ii) Về nguồn gốc: Ngày 04/01/2022, Phó chủ tịch UBND phường Ph đã căn cứ Biên bản số 81/BB.KT ngày 20/9/2002 của Đoàn kiểm tra việc quản lý sử dụng đất đai phường Ph; Quyết định số 260/QĐ.CT ngày 04/8/2003 của UBND thị xã T về việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng và đất đai; Biên bản ngày 15/8/2003 của UBND phường Ph về việc công bố quyết định xử lý vi phạm hành chính; Biên bản xác định mốc thời gian sử dụng đất đối với số hộ sử dụng đất chuyên dùng (nghĩa địa) ngày 21/9/2006; Bản đồ 299, sổ mục kê ruộng đất năm 1985 của xã Phú Thọ; Báo cáo số 209/BC.TCT ngày 26/01/2007 của Tổ công tác theo Quyết định số 4253/QĐ.UBND đã xác định phần đất của bà Th đang sử dụng có nguồn gốc là đất công (chuyên dùng) do UBND phường Phú Thọ quản lý trước năm 1995 (theo Bản đồ 299 xã Phú Thọ, sổ mục kê ruộng đất năm 1985 thuộc thửa số 6, tờ bản đồ số 01). Đến tháng 7/1995, khu đất nằm trong ranh giới đất bàn giao cho UBND phường Ph quản lý tuy nhiên hiện nay UBND phường Ph không cung cấp được hồ sơ bàn giao giữa hai bên. Xét tại Quyết định số 2700/QĐ.UB ngày 14/6/2002 của UBND thị xã T “về việc chứng nhận đăng ký quỹ đất công cho phường Ph, thị xã T” và Quyết định số 5322/QĐ-UBND ngày 18/11/2010 “về việc chứng nhận đăng ký quỹ đất công cho phường Ph, thị xã T, tỉnh Bình Dương” quản lý là không có thửa đất số 54, tờ bản đồ số 30, tại khu phố 2, phường Ph mà bà Th đang quản lý sử dụng. Như vậy, căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã thì UBND phường Ph chỉ cần cung cấp cho Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố T về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp quyền sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch….Tuy nhiên Phó Chủ tịch UBND phường Ph ngoài việc cung cấp thông tin trên còn xác nhận nội dung “…đất chưa đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...” là vượt quá thẩm quyền, vì UBND cấp xã không có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không có thẩm quyền kết luận nội dung trên. Tòa án cấp sơ thẩm không đánh giá thẩm quyền trả lời của Phó Chủ tịch UBND phường Ph; nhận định bà Th không đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giải quyết vượt quá thẩm quyền và phạm vi giải quyết theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
(iii) Xét tính hợp pháp của Quyết định giải quyết khiếu nại số 1718/QĐ- UBND ngày 15/3/2022 của Chủ tịch UBND phường Ph: Do Văn bản xác nhận ngày 04/01/2022 vi phạm thẩm quyền theo quy định của pháp luật nên quyết định giải quyết khiếu nại trên là không phù hợp pháp luật.
Từ những phân tích trên, xét kháng cáo của người khởi kiện và quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện là có cơ sở chấp nhận.