Nội dung sửa án:
(i) Về việc xác định đối tượng bị khởi kiện và loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng hành chính: Ngày 10/10/2020, ông Nguyễn Văn Nh có đơn xin hợp thức hóa quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 1.230m2 thuộc thửa 625, tờ bản đồ 21 (thực tế là thửa 624, tờ bản đồ 21). Ngày 04/11/2020, Ủy ban nhân dân phường V ban hành Văn bản số 1125/UBND-TD về việc trả lời đơn của ông Nguyễn Văn Nh có nội dung: Ủy ban nhân dân phường V không thể hướng dẫn cho ông lập thủ tục cấp hợp thức hóa quyền sử dụng đất vì diện tích đất 1.230m2 là đất công do phường quản lý. Ngày 10/12/2020, ông Nh nộp đơn khiếu nại đối với Công văn số 1125/UBNDTD ngày 04/11/2020 của Ủy ban nhân dân phường V. Ngày 11/01/2021, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường V ban hành Quyết định số 27/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Nh.Tại Điều 6 Luật Tố tụng hành chính quy định: “…Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án có quyền xem xét về tính hợp pháp của văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện và kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại văn bản hành chính, hành vi hành chính đó và trả lời kết quả cho Tòa án theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan…”. Tại khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính quy định “…Hội đồng xét xử có quyền quyết định chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp luật và quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan (nếu có)…”. Đối chiếu với quy định nêu trên thì Văn bản số 1125/UBND-TD ngày 04/11/2020 có liên quan trực tiếp đến Quyết định hành chính bị khởi kiện. Quá trình thụ lý giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm không hướng dẫn đương sự khởi kiện bổ sung để yêu cầu Tòa án xem xét Văn bản số 1125/UBND-TD ngày 04/11/2020 là quyết định hành chính ban đầu hoặc xem xét tính hợp pháp của văn bản này trong bản án theo quy định tại Điều 193 Luật Tố tụng hành chính là có sai sót. Vì vậy, quá trình xét xử phúc thẩm Tòa án sẽ xem xét giải quyết đối với các quyết định hành chính có liên quan trực tiếp đến quyết định hành chính bị kiện để vụ án được giải quyết triệt để. Đồng thời, Văn bản số 1125/UBND-TD ngày 04/11/2020 của UBND phường V về việc trả lời không thể hướng dẫn cho ông Nh lập thủ tục hợp thức hóa quyền sử dụng đất có liên quan trực tiếp đến Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 11/01/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường V về giải quyết khiếu nại bị khởi kiện. Do đó, văn bản nêu trên cũng là đối tượng được xem xét giải quyết của Tòa án theo quy định đã viện dẫn. Mặt khác, Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 11/01/2021 là quyết định giải quyết khiếu nại nhưng bản án sơ thẩm xác định loại việc thụ lý, giải quyết: “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” là chưa đầy đủ nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định lại quan hệ pháp luật là: “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai và giải quyết khiếu nại”.
(ii) Từ những căn cứ trên xét việc UBND phường V xác định thửa đất số 625 (thực tế là thửa 624), tờ bản đồ 21 là đất công nhưng không đưa vào danh mục đất công do nhà nước quản lý qua các thời kỳ từ năm 1997 đến 2021 trên địa bàn huyện (thị xã T) hay địa bàn tỉnh Bình Dương. Đồng thời, UBND phường V không nắm được diện tích đất cụ thể, không cung cấp được hồ sơ, quyết định thể hiện kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất từ năm 1997 đến nay theo quy định của Luật Đất đai và quy định về việc quản lý đất công theo Quyết định số 04/2014/QĐ-UBND ngày 25/01/2014 của UBND tỉnh Bình Dương nên việc UBND phường V trả lời về nguồn gốc đất đối với đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu của ông Nguyễn Văn Nh tại Văn bản số 1125/UBNDTD ngày 04/11/2020 là không phù hợp.
(iii) Đối với Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 11/01/2021 của Chủ tịch UBND phường V:
Chủ tịch UBND phường V đã căn cứ biên bản ngày 17/11/97 có nội dung “thống nhất bồi thường bằng tiền thành quả lao động bỏ ra trồng cây cao su với số tiền là 1.000.000 đồng (một triệu đồng) miếng đất đang xây dựng UBND còn lại số đất chưa xây dựng thống nhất cho trồng cây hàng bông khi nào nhà nước yêu cầu xây dựng thì trả lại cho nhà nước” và Quyết định số 1436/QĐ-CT ngày 10/8/2004 của UBND huyện Tân Uyên về việc giải quyết giải đơn tranh chấp quyền sử dụng đất của ông Nh để giải quyết và bác khiếu nại của ông Nh. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét Quyết định giải quyết khiếu nại số 1436 nêu trên, do vậy quyết định này mặc dù không bị khởi kiện nhưng có liên quan đến yêu cầu của người khởi kiện. Lẽ ra khi giải quyết thì cấp sơ thẩm cần xem xét đến các biên bản làm việc cùng thể hiện ngày 11/7/97 của UBND xã V (nay là phường V) từ đó làm rõ tính hợp pháp của Quyết định giải quyết khiếu nại số 1436/QĐ-CT ngày 10/8/2004 và Quyết định số 27/QĐ- UBND ngày 11/01/2021 vì nó đã được phía người bị kiện làm căn cứ bác yêu cầu khởi kiện của ông Nh. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông Nh không tranh chấp đối với Quyết định giải quyết khiếu nại số 1436/QĐ-CT ngày 10/8/2004 và quyết định này đã có hiệu lực pháp luật từ đó xác định Quyết định số 27/QĐ- UBND ngày 11/01/2021 có căn cứ là nhầm lẫn. Tuy nhiên, xét nội dung của Quyết định số 27 đã sử dụng lại nội dung của Quyết định số 1436 đồng thời phía người khởi kiện và người bị kiện đều thống nhất với nội dung của biên bản ngày 11/7/97. Sự thừa nhận của đương sự là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh quy định tại Điều 79 Luật Tố tụng hành chính 2015 nên cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm vì những thiếu sót trên.
Xét, diện tích đất 1.230m2 thửa đất số 625 (thực tế là thửa 624), tờ bản đồ 21 có nguồn gốc do ông Nguyễn Văn G1 (cha ông Nguyễn Văn Nh) khai phá, sau đó giao lại cho ông Nh quản lý. Quá trình tố tụng, người bị kiện xác định năm 1997 tạm giao cho ông Nguyễn Văn Nh quản lý, sử dụng và yêu cầu khi nào nhà nước có nhu cầu sử dụng thì trả lại. Tuy nhiên, từ năm 1997 đến nay UBND phường V vẫn chưa có văn bản nào yêu cầu ông Nh trả lại diện tích đất nêu trên cũng không tiến hành xác định ranh giới, mốc giới thửa đất trên thực địa. Tại Biên bản xem xét thẩm định, tại chỗ ngày 24/02/2022 của Tòa án nhân dân thị xã T thể hiện: “phần diện tích đất 1.230m2, thuộc thửa đất số 624 hiện trạng có 14 cây cao su ông Nh trồng vào năm 1991 và 09 cây lồng mức tự mọc”. Điều này xác định việc ông Nguyễn Văn Nh có quá trình sử dụng đất ổn định, lâu dài. Căn cứ khoản 3 Điều 17 Quyết định số 04/2014/QĐ-UBND ngày 25/4/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương quy định: “3. Đối với các thửa đất bị lấn, bị chiếm trước ngày 01/7/2004 nếu người sử dụng đất đang sử dụng đúng quy hoạch, nền đất ổn định, không có nguy cơ bị sạt lở, không tranh chấp thì Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, giao đất có thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng theo quy định của pháp luật đất đai”. Như vậy, việc Ủy ban nhân dân phường V ban hành Văn bản số 1125/UBND-TD ngày 04/11/2020 về việc không hướng dẫn ông Nguyễn Văn Nh lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường V ban hành Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 04/11/2020 về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Nh có nội dung không đồng ý hợp thức hóa diện tích đất 1.230m2 để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nh vì xác định diện tích đất trên thuộc đất công là không có căn cứ.
(iv) Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm có một số sai sót trong quá trình giải quyết vụ án, tuy nhiên những thiếu sót này đã được khắc phục tại cấp phúc thẩm; sai sót này không làm thay đổi bản chất vụ án, không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên không cần thiết phải hủy án sơ thẩm. Do đó, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị hủy bản án sơ thẩm là chưa phù hợp.