Nội dung sửa án:
(i) Theo nội dung của Thông báo số 01/TB-UBND ngày 07/01/2022 và Thông báo số 162/TB-UBND ngày 30/11/2022 thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân xã S, tuy nhiên việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã S ký vào hai thông báo này nhưng không dưới hình thức thay mặt Ủy ban nhân dân xã S là không đúng quy định của pháp luật nhưng vấn đề này không ảnh hưởng đến bản chất nội dung của vụ án.
(ii) Đối chiếu với các quy định của pháp luật và hướng dẫn nêu trên đều quy định sau khi nhận hồ sơ đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì UBND cấp xã có trách nhiệm và thẩm quyền kiểm tra hồ sơ và thực hiện các công việc như: xác nhận hiện trạng sử dụng đất so với nội dung kê khai đăng ký; trường hợp không có giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định 43 thì xác nhận nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch; Niêm yết công khai kết quả kiểm tra hồ sơ, xác nhận hiện trạng, tình trạng tranh chấp, nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và khu dân cư nơi có đất, tài sản gắn liền với đất trong thời hạn 15 ngày; xem xét giải quyết các ý kiến phản ánh về nội dung công khai và gửi hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai. Nhưng UBND xã S sau khi nhận hồ sơ của ông Trương Hữu T lại không thực hiện trách nhiệm và thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật như đã viện dẫn trên mà ban hành ngay Thông báo số 01 chuyển trả hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trương Hữu T, với lý do đất ông Trương Hữu T yêu cầu cấp giấy chứng nhận là đất do UBND xã S quản lý và trực tiếp trả hồ sơ cho ông T.
Trong trường hợp này, lẽ ra sau khi UBND xã S thực hiện các công việc thuộc thẩm quyền của mình thì UBND xã S phải chuyển toàn bộ hồ sơ của ông Trương Hữu T lên Chi nhánh Văn phòng Đi để Chi nhánh thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mình là kiểm tra hồ sơ đăng ký; xác minh thực địa trong trường hợp cần thiết; xác nhận đủ điều kiện hay không đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất vào đơn đăng ký của ông T. Trường hợp đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Chi nhánh Văn phòng Đi chuyển hồ sơ cho UBND huyện H; nếu không đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chuyển hồ sơ để UBND xã S trả lại cho ông Trương Hữu T. Có như vậy thì hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T mới đảm bảo được tính khách quan, đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Việc UBND xã S không chuyển toàn bộ hồ sơ của ông Trương Hữu Tiên Chi nhánh Văn phòng Đ1 mà lại ban hành Thông báo số 01 trả lại đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T là trái pháp luật nên Thông báo số 162/TB-UBND ngày 30/11/2022 của Ủy ban nhân dân xã S và Quyết định số 39/UBND ngày 24/2/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã S đều không có căn cứ nên cần tuyên hủy Thông báo số 01, Thông báo số 162 và Quyết định số 39 theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính. Do đó, ông Trương Hữu T khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 39/UBND ngày 24/2/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã S là có cơ sở chấp nhận.
(iii) Việc ông Trương Hữu T yêu cầu UBND xã S xác nhận nguồn gốc đất cho gia đình ông, đây thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của UBND xã S khi nhận hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Trương Hữu T như đã nhận định ở trên.
Từ những nhận định trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hữu T là chưa phù hợp. Nên kháng cáo của người khởi kiện cũng như ý kiến của Kiểm sát viên đề nghị sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2023/HC-ST ngày 29 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hữu T là có căn cứ nên được chấp nhận.