Nội dung sửa án:
(i) Về số tiền đặt cọc 300.000.000 đồng mà nguyên đơn đã chuyển cho bị đơn:
…
Quá trình thực hiện hợp đồng, anh V đã đặt cọc cho công ty số tiền 300.000.000đ 13/5/2022 đặt 100 triệu đồng; ngay sau khi ký hợp đồng đặt 200 triệu đồng (Điều 2) và yêu cầu bên công ty phải có bản vẽ thi công trong hạn 30 ngày kể từ ngày ký nhưng công ty không cung cấp (Điều 3 hợp đồng). Cho đến khi anh V khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện H (đơn khởi kiện ngày 14/02/2023) thì ngày 09/2/2023 bên phía công ty mới cung cấp bản vẽ thi công, tuy nhiên trong bản vẽ thi công K không phù hợp với dự toán trong hợp đồng mà hai biên đã ký kết: sai số cột, trong dự toán, sai kích thước chi tiết trong dự toán và chiều cao tkhông thủy nhà xưởng không đạt 8m như hai bên đã thỏa thuận. Tại biên bản nghiệm thu ngày 3/10/2022 thì khối lượng của bộ khung nhà xưởng là 63.200 tăng hơn so với dự toán ban đầu là 13 tấn tương ứng với 30,25%; chênh lệch vượt quá 10 lần so với cam kết trong bản dự toán là 3%. Mặt khác ông K đại diện công ty cho rằng bộ khung anh V đặt công ty ông làm trước đó công ty ông đã làm. Nhưng khi hội đồng thẩm định đến công ty để xem xét thẩm định bộ khung mà ông K cho rằng đang hoàn thiện để lắp đặt nhà xưởng cho anh V, nhưng tại công ty hội đồng xem xét thẩm định không thấy bộ khung nhà xưởng nào ở công ty của ông K . Như vậy sau khi không thỏa thuận được như trong hợp đồng gia công và bảng dự toán thì phía công ty không gia công nữa.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị đơn có lỗi trong việc thực hiện hợp đồng là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cần phải xác định giao dịch dân sự giữa các bên được chấm dứt và giải quyết hậu quả của việc chấm dứt giao dịch dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh V, tuyên vô hiệu hợp đồng mua bán và gia công nhà xưởng số 2705/2022/HĐMBGCLD/MR V – CKBQP/2022 là không phù hợp với quy định của pháp luật.
(ii) Về yêu cầu đòi số tiền lãi với mức lãi suất 10%/năm đối với số tiền mà nguyên đơn đã đặt cọc cho bị đơn:
HĐXX xét thấy: Trong hợp đồng mua bán và gia công nhà xưởng được giao kết giữa nguyên đơn và bị đơn, các bên không có thỏa thuận về số tiền lãi 10% đối với số tiền đặt cọc mà chỉ thỏa thuận về việc phạt vi phạm hợp đồng với số tiền 10% giá trị hợp đồng. Như đã phân tích ở trên, Tòa án xác định bị đơn có lỗi trong việc thực hiện hợp đồng dẫn đến hợp đồng không thể thực hiện được nên đã chấp nhận yêu cầu đòi số tiền phạt hợp đồng tương ứng với 10% giá trị hợp đồng. Vì vậy, việc nguyên đơn yêu cầu đòi số tiền lãi 10%/năm với số tiền đặt cọc 300.000.000 đồng là không phù hợp với quy định của pháp luật.
Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, không chấp nhận yêu cầu đòi số tiền lãi với mức lãi suất 10%/năm đối với số tiền mà nguyên đơn đã đặt cọc cho bị đơn là 30.000.000 đồng.