Nội dung sửa án:
(i) Tính đến ngày 31/12/2018, căn hộ chưa được bàn giao, bên mua chưa ký biên bản bàn giao căn hộ cho bên bán để đưa căn hộ tham gia vào chương trình cho thuê căn hộ, nhưng bên mua đã thanh toán cho bên bán tổng số tiền 1.787.995.000 đồng (tương đương với 95% giá trị căn hộ). Bên bán cũng đã thực hiện thanh toán cho bên mua khoản tiền tạm ứng thu nhập cam kết với tổng số tiền là 263.925.288 đồng. Đây là thỏa thuận về việc thanh toán không phù hợp với quy định của Luật KĐBĐS và các điều khoản trong Phụ lục 6 của Hợp đồng mà các bên đã ký kết.
Theo quy định tại các Điều 122, 123 Bộ luật dân sự thì thỏa thuận thanh toán vượt 70% giá trị căn hộ để được hưởng tạm ứng Thu nhập cam kết tại Phụ lục số 06 kèm theo hợp đồng mua bán sẽ bị xác định là vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật.
Căn cứ khoản 1 Điều 120 Bộ luật dân sự, thỏa thuận này không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua về thu nhập cam kết, nên không có căn cứ để thực hiện việc chi trả Thu nhập cam kết. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm sẽ xem xét nội dung này của Công ty T. Buộc ông B (Bên mua) phải hoàn trả lại cho Công ty T (Bên bán) về số tiền Thu nhập cam kết đã nhận là 263.925.288 đồng.
(ii) Đối với yêu cầu buộc Công ty T phải trả tiền lãi do chậm thực hiện việc bàn giao căn hộ thì thấy: Theo quy định tại điểm (i) khoản 4.2 Điều 4 của Hợp đồng quy định: “Nếu Bên bán bàn giao căn hộ cho Bên mua chậm hơn 90 (chín mươi) ngày. Ngày bàn giao dự kiến, thì Bên bán phải trả cho Bên mua tiền lãi do chậm giao trên số tiền giá bán căn hộ mà Bên mua đã thực tế thanh toán cho Bên bán theo mức lãi suất quá hạn là 0,03%/ngày kể từ ngày thứ 91 đến ngày bàn giao thực tế”. Tuy nhiên, theo quy định của Luật kinh doanh bất động sản thì bên bán chỉ được nhận của bên mua số tiền 70% giá trị căn hộ nên Hội đồng xét xử buộc Công ty Thành Đô phải thanh toán tiền lãi theo thỏa thuận trên số tiền 70% giá trị căn hộ với mức lãi suất đã thỏa thuận.
(iii) Đối với yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng, thì thấy: Theo quy định tại điểm iii khoản 12.2 Điều 12 của Hợp đồng quy định trách nhiệm của bên bán là: “Thanh toán khoản tiền phạt vi phạm tương đương 8% giá bán căn hộ”. Theo quy định tại Phụ lục 01 của Hợp đồng về giá bán căn hộ là 1.882.100.000 đồng (bao gồm giá trị gia tăng), bản thân ông B cũng đã thanh toán cho Công ty T được số tiền là 1.787.995.000 đồng. Do Công ty T vi phạm về thời gian bàn giao căn hộ dẫn đến ông Bảo đề nghị đơn phương chấm dứt hợp đồng, lỗi thuộc về Công ty T. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông B về phạt vi phạm hợp đồng là đúng nhưng đã tính yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 8% trên số tiền 1.916.320.000 đồng (bao gồm cả phí bảo trì 34.220.000 đồng) là chưa phù hợp nên Hội đồng xét xử sửa lại trên giá mua bán căn hộ theo hợp đồng là 1.882.100.000 đồng, cụ thể như sau 1.882.100.000 đồng x 8% = 150.568.000 đồng.