Bản án dân sự phúc thẩm số 82/2024/DS-PT ngày 26/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ

04/11/2024
Luật Nghinh Phong
74
0

Nội dung sửa án:   

(i) Theo quy định tại điểm b, Khoản 2 Điều 19 Nghị định 99/2015/NĐ-CP của Chính phủ về ký hợp đồng huy động vốn cho phát triển nhà ở thương mại quy định trách nhiệm của Chủ đầu tư phải gửi Sở Xây dựng văn bản kèm theo giấy tờ chứng minh nhà ở có đủ điều kiện được bán, cho thuê mua theo quy định tại Khoản 1 Điều 55 của Luật Kinh doanh bất động sản: quy định trách nhiệm của Sở Xây dựng phải có văn bản thông báo nhà ở đủ điều kiện được bán, cho thuê mua gửi chủ đầu tư; trường hợp chưa có ý kiến của Sở xây dựng và nhà ở đó đã đủ điều kiện được bán, cho thuê mua thì chủ đầu tư được quyền ký hợp đồng mua bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai nhưng phải chịu trách nhiệm về việc bán, cho thuê mua nhà ở này. Như vậy việc doanh nghiệp tư nhân S ký kết các hợp đồng bán căn hộ khi chưa có ý kiến của Sở xây dựng thì doanh nghiệp tư nhân S phải chịu trách nhiệm về việc ký kết này, không phải là điều kiện, lý do dẫn đến hợp đồng mua bán căn hộ số Q6-452 và Q bị vô hiệu.

(ii) Mặt khác, theo văn bản Sở xây dựng tỉnh cung cấp thông tin cho Tòa án về dự án S thì ngày 24-5-2018, Thanh tra Sở xây dựng đã tiến hành kiểm tra hồ sơ pháp lý và chất lượng công trình dự án S. Tại thời điểm kiểm tra, công trình đang thi công cốt pha và thép sàn tầng 9; về hiện trạng và hồ sơ pháp lý tại thời điểm kiểm tra có kết quả chủ đầu tư thi công cơ bản đúng như nội dung giấy phép xây dựng được cấp (BL 71), phù hợp với phương thức thanh toán kèm hợp đồng Q6.452 là thanh toán đợt 2 khi làm cột sàn tầng 10; Tại phiếu thu thanh toán tiền đợt 2 của bà T thể hiện ngày thanh toán là ngày 12-6-2018. Do đó, việc ông Hoàng Ngọc H - Chủ Doanh nghiệp tư nhân S cho rằng Hợp đồng Q6-452 được ông Phạm Công B1 chủ Doanh nghiệp tư Nhân S cũ và bà T ký kết ngày 23-4-2018 khi dự án chưa hoàn thiện xong phần móng, chưa có biên bản nghiệm thu là không có cơ sở.

(iii) Bà T yêu cầu ông Hoàng Ngọc H - Chủ Doanh nghiệp tư nhân S bồi thường thiệt hại cho bà T khoản tiền lợi ích từ hợp đồng mang lại là 80% giá trị cho thuê căn hộ tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 256.000.000 đồng (6.400.000 đồng x 40 tháng = 256.000.000 đồng). Người đại diện theo ủy quyền của bà T cung cấp cho Tòa án 01 bản hợp đồng thuê tại chung cư V, khu T, phường N, thành phố V, diện tích sử dụng căn hộ 61,50m2; diện tích sàn xây dựng 65,80m2, giá thuê 8.200.000 đồng/tháng, bên cho thuê là Võ Hạnh N và bên thuê là Võ Phước L. Chứng cứ này không phải là căn cứ để xác định đó là khoản thiệt hại do chậm bàn giao căn hộ của Doanh nghiệp tư nhân S đối với bà T. Tòa án cấp sơ thẩm xác minh giá thuê căn hộ khác để làm căn cứ tính thiệt hại cho bà T là không có cơ sở. Không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T. Sửa phần này của bản án sơ thẩm.

Bài viết liên quan

Góp ý