Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 18/2019/KDTM-PT ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

(i) Xét kháng cáo của Công ty TNHH thương mại HT - Người đại diện bà Lê Thị D kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2019/KDTMST ngày 30/8/2019, xét thấy:

- Bà D cho rằng bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột trái với Quyết định giám đốc thẩm số: 34/2013/KDTM-GĐT ngày 27/9/2013 của Tòa án nhân dân Tối cao. Hội đồng xét xử xét thấy, về số tiền bà N thừa nhận ứng của bà D 5.002.614.000 đồng, còn số tiền 165.000.000 đồng mà một số người nhận dùm bà N, không được bà N thừa nhận. Tại Tòa án cấp sơ thẩm bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm không đặt ra xem xét là có căn cứ.

- Đối với trị giá cà phê nhân xô tại thời điểm năm 2001, 2002, bà D cho rằng giá cà phê tại thời điểm từ tháng 10/2001 đến ngày 22/11/2002 là 6.706,4 đồng/1kg, bà N cho rằng chốt giá bán cho bà D giá là 6.675,58 đồng/1kg. Về giá cà phê tại thời điểm năm 2001 và 2002, hai người không thống nhất được trị giá mà có sự chênh lệch, do đó cần tính lại giá trung bình của hai người cộng lại chia hai là 6.690,99 đồng để đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Như vậy, số tiền bà N ứng của bà D là (5.002.614.000 đồng : 6.690,99 đồng/01kg cà phê nhân xô = 747.664,25 kg cà phê nhân xô).

- Đối với số lượng cà phê nhân xô bà N đã giao cho bà D, tại “Đơn khởi kiện” ngày 30/9/2005 bà D đã kê khai cụ thể:

+ Ngày 25/10/2002: 8.058kg ( đã trả cho Thư 5.000 kg), còn 3.058kg;

+ Ngày 18/11/2002: 5.685,8kg;

+ Ngày 25/11/2002: 6.726,5kg;

+ Ngày 29/11/2002: 5.292kg;

+ Ngày 03/12/2002: 7.685,4kg;

Tuy nhiên, tại vụ án này bà D không thừa nhận là bà D đã nhận số lượng cà phê các lần giao cà phê trên của bà N, tại “Đơn khởi kiện” ngày 30/09/2005, tại mục “Hàng chốt bán” và tại mục “Hàng đã giao” tính từ trên xuống đến hàng thứ 18 bà D đã ghi vào đơn khởi kiện coi như đã công nhận vào các ngày nói trên bà N đã giao cà phê cho bà D. Quá trình giải quyết vụ án, bà D lại thay đổi yêu cầu chỉ yêu cầu giải quyết về việc mua bán cà phê với bà N từ năm 2003 đến năm 2005, nay bà D không thừa nhận đã nhận cà phê nhân xô của bà N vào các ngày trên là không có căn cứ. Do vậy, có căn cứ bà N đã giao cho bà D số lượng 777.482,4kg cà phê nhân xô - 747.664,25 kg cà phê nhân xô (số cà phê phải giao) thì còn lại bà N giao thừa cho bà D 29.818,15kg cà phê nhân xô. Trong tổng số lượng này bà D đã thay bà N giao trả cho bà Thư 5.000 kg cà phê nhân xô, còn lại 24.818,15kg cà phê nhân xô. Theo bản án số: 54/2012/KDTM-PT ngày 30/7/2012 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại Đà Nẵng, thì bà D đã thi hành được 1.208kg cà phê nhân xô. Như vậy, tính đến thời điểm xét xử phúc thẩm bà D còn nợ của bà N số lượng 23.610,15 kg cà phê nhân xô, nên bà D phải có trách nhiệm giao trả lại cho bà N.

Do đó, kháng cáo của bà D được chấp nhận một phần, sửa một phần bản án kinh doang thương mại sơ thẩm.

(ii) Tòa án cấp sơ thẩm tuyên “Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải chịu thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự 2015”. Căn cứ Điều 430; 431; 437 BLDS năm 2015, việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên như vậy là không có căn cứ, trái với điều luật được qui định tại BLDS các năm 2005, năm 2015 cần rút kinh nghiệm.

(iii) Về án phí: Do sửa một phần bản án kinh doanh thương mại nên án phí có giá ngạch cũng được tính lại theo số lượng cà phê phải trả.

- Án phí KDTMST: Sửa án sơ thẩm nên các bên đương sự không phải chịu án phí DSPT (giá cà phê nhân xô tại thời điểm xét xử phúc thẩm là 33.000đồng/kg). Như vậy:

+ Bà N không được chấp nhận đơn khởi kiện đối với số lượng 5.000kg cà phê nhân xô nên phải chịu (5.000kg x 33.000 đồng) x 5% = 8.250.000 đồng.

+ Bà D phải trả lại cho bà N số lượng 23.610,15 kg cà phê nhân xô nên phải chịu (23.610,15 kg x 33.000 đồng) = 779.134.950 đồng, bà D phải chịu 35.165.000 đồng.

- Án phí KDTMPT: Do chấp nhận một phần đơn kháng cáo của Công ty TNHH thương mại HT, sửa án sơ thẩm nên các bên đương sự không phải chịu án phí DSPT.

Góp ý