Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 08/2019/KDTM-PT ngày 11/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng và bồi thường thiệt hại hợp đồng

Nội dung sửa án:

(i) Tại phiên tòa Phúc thẩm, nguyên đơn và bị đơn cùng thống nhất thỏa thuận về số tiền mua bán thức ăn còn nợ là 2.238.742.170 đồng. Bị đơn đồng ý trả cho nguyên đơn số tiền nợ 2.238.742.170 đồng. Nguyên đơn đồng ý xuất hóa đơn bán hàng thông thường theo qui định của Bộ Tài chính đối với số tiền 2.238.742.170 đồng, thời gian xuất hóa đơn tại thời điểm bị đơn trả đủ tiền khi bản án có hiệu lực pháp luật. Xét thấy, việc thỏa thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với qui định của pháp luật và phù hợp với đề nghị của luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và lời đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa nên được Hội đồng xét xử ghi nhận việc thỏa thuận của nguyên đơn và bị đơn.

(ii) Về xác định thiệt hại của hợp đồng: Nguyên đơn chứng minh bằng hợp đồng mua cá ngày 15/9/2017 của bà Dương Thị Kim L (Bút lục 38-45) và hợp đồng mua bán với Trang trại Đ-Th(Bà nguyễn Thị Thu PH làm chủ) vào ngày 15/8/2017 (Bút lục 14-21) để làm cơ sở xác định thiệt hại, Tòa án sơ thẩm đã căn cứ vào 02 hợp đồng này cùng biên nhận giao nhận cá, giao nhận tiền để xác định mức độ thiệt hại là 2.900.090.000 đồng và buộc bị đơn pH bồi thường toàn bộ số tiền này. Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn pH bồi thường như trên là không thỏa đáng. Bởi lẽ, xét hợp đồng kinh tế số số 01/HĐMB-2017 ngày 01/01/2017 giữa bà Cao Phương Ng – Chủ đại lý thức ăn thủy sản Phước Lộc (Bên B) và Công ty trách nhiệm hữu hạn nuôi trồng thủy sản Ph (Bên A) do ông Ưng Văn H làm đại diện; Hợp đồng mua bán ngày 15/9/2017 giữa bà Cao Phương Ng với bà Dương Thị Kim L; Hợp đồng mua bán ngày 15/8/2017 giữa Trang trại Đ- Th(Do Bà PH làm đại diện) với bà Cao Phương Ng thì có những điểm bất hợp lý về số tiền thiệt hại 2.900.090.000 đồng như sau:

- Đối với hợp đồng bao tiêu sản phẩm giữa bà Ng và Công ty trách nhiệm hữu hạn nuôi trồng thủy sản Ph thì thỏa thuận bán 700 tấn cá/năm mà không qui định rõ về thời gian bắt cá cụ thể như vào tháng nào hoặc mỗi tháng pH giao bao nhiêu, nên không có cơ sở buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn nuôi trồng thủy sản Ph pH có trách nhiệm giao cá cho bà Ng vào tháng 8 và tháng 9 năm 2017 để bà Ng giao lại cho Trang trại Đức Thành. Đồng thời hợp đồng mua bán cá giữa bà Ng và Công ty trách nhiệm hữu hạn nuôi trồng thủy sản Ph cũng không ràng buộc điều khoản nào đối với bên thứ 3 khi thực hiện hợp đồng và khi phát sinh thiệt hại.

- Đối với Hợp đồng mua bán ngày 15/8/2017 giữa Trang trại Đ-Th(Do Bà PH làm đại diện) với bà Cao Phương Ng: Hợp đồng xác lập ngày 15/8/2017 với thỏa thuận giao cá trong tháng 8 và tháng 9 năm 2017 với số lượng cá giống là 150.000Kg. Theo nội dung hợp đồng này đối chiếu với nội dung hợp đồng với Công ty trách nhiệm hữu hạn nuôi trồng thủy sản Ph ký với bà Ng thì cũng không có cơ sở để xác định Công ty trách nhiệm hữu hạn nuôi trồng thủy sản Ph pH có trách nhiệm giao lượng cá nêu trên cho bà Ng để bà Ng đảm bảo hợp đồng với Trang trại Đức Thành.

- Đối với Hợp đồng mua bán ngày 15/9/2017 giữa bà Cao Phương Ng với bà Dương Thị Kim L: Hợp đồng lập ngày 15/9/2017, số lượng 150 tấn. Nội dung của hợp đồng không có qui định thời gian giao hàng cụ thể như thế nào. Nên cũng chưa đủ cơ sở để xác định bà Ng có mua cá của bà L và giao lại cho Trang trại Đ- Thhay không, thời gian mua cá cụ thể như thế nào cũng không thể hiện trong hợp đồng.

Để làm rõ các bất cập nêu trên, theo yêu cầu của các bên đương sự tại phiên tòa Phc thẩm. Tòa án cấp Phc thẩm đã tiến hành thẩm tra xác minh, thu thập thêm chứng cứ như sau:

- Công an xã Thạnh Hòa, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang cung cấp: “1. Vào ngày 25/8/2017 bà Cao Phương Ng có mang đơn yêu cầu can thiệp đến Công an xã Thạnh Hòa nhờ can thiệp giữa bà và ông H có tranh chấp hợp đồng kinh tế... Công an xã Thạnh Hòa nhận thấy vụ việc trên không thuộc thẩm quyền của Công an xã giải quyết nên hướng dẫn Bà chuyển hồ sơ lên cấp trên xem xét, giải quyết theo thẩm quyền. 2. Vụ việc tranh chấp bản thân bà Ng đến Công an xã trình báo. Thời điểm đó, đồng chí Phạm Hoàng Sang – Trưởng công an xã và 02 đồng chí Công an viên đến tại trụ sở Công ty TNHH nuôi trồng thủy sản Ph để xem xét giải quyết. Khi Công an xã đến thì hai bên tự giải tán nên Công an xã không lập biên bản, bởi vì không có L quan đến an ninh trật tự. Tại Công ty TNHH nuôi trồng thủy sản Ph, chúng tôi có trao đổi với ông H – Giám đốc công ty về việc đảm bảo an ninh trật tự, mọi việc pH chờ Cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Ngoài những vấn đề trên chúng tôi không ghi nhận gì thêm”.

- Đối với bà Dương Thị Kim L, sinh năm 1978 – Địa chỉ: Khóm 4, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Qua xác minh thì được ông Phạm Quốc Vũ – Trưởng Khóm 4, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp cung cấp “Tại khu vực Khóm 4, thị trấn Mỹ An có vùng nuôi cá tra nhưng tôi không biết bà Dương Thị Kim L, sinh năm 1978 này là ai, làm nghề nghiệp gì”.

Vấn đề này phù hợp với kết quả xác minh của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang ngày 17/6/2019.

- Đối với Trang trại Đ-Th(Bà Nguyễn Thị Thu PH làm chủ): Tòa án Phc thẩm cũng tiến hành xác minh tại địa phương nơi bà PH cư trú nhưng bà PH trả lời với chính quyền địa phương là từ chối cung cấp thông tin xác minh cho Tòa án Phc thẩm. Vào lúc 11 giờ 57 Pht, ngày 17/6/2019, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang đến tại trụ sở Công an phường Trung Kiên, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ để ghi lời khai bà Nguyễn Thị Thu PH, được bà PH cung cấp thông tin như sau: “...Ngoài việc mua cá của bà Ng còn mua cá của nhiều người khác nữa, vì mua số lượng lớn để nuôi; Nếu bà Ng cung cấp không đủ số lượng cá theo hợp đồng đã ký thì đi mua chỗ khác chứ không yêu cầu bà Ng bồi thường; Thực tế thì chị Ng giao cá cho tôi thì tôi trả tiền theo giá dao động trên thị trường chứ không căn cứ theo giá trong hợp đồng mua bán. Nếu giá thị trường tăng thì tôi và chị Ng thỏa thuận tăng lên; Tôi và chị Ng mua bán cá với nhau mặc dù có ký hợp đồng mua bán, nhưng lúc nào chị Ng giao cá đúng với giá trong hợp đồng thì tôi nhận và trả tiền, sau đó chị Ng giao cá tiếp số lượng còn lại theo hợp đồng mà giá thị trường có tăng hay giảm thì tôi và chị Ng đều có thỏa thuận tăng hoặc giảm theo chứ không pH là toàn bộ số lượng cá trong hợp đồng đều giao nhận với giá đã ghi trong hợp đồng”.

Qua kết quả xem xét chứng cứ mà Tòa sơ thẩm thu thập có trong hồ sơ và kết quả thu thập thêm chứng cứ của Tòa án cấp Phc thẩm và của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang. Hội đồng xét xử Phc thẩm thấy rằng, việc bà Ng chứng minh bị thiệt hại số tiền 2.900.090.000 đồng là không có cở sở xác thực. Bởi lẽ, qua thu thập và xác minh của Tòa án Phc thẩm và của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang thì không xác định được bà L ở Khóm 4, thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp có vùng nuôi cá cũng như bán cá cho bà Ng vào thời điểm tháng 9 năm 2017. Đối với bà Nguyễn Thị Thu PH thì từ chối cung cấp thông tin cho Tòa án Phc thẩm, nhưng bà PH có cung cấp thông tin cho Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang. Qua đối chiếu lời trình bày của Bà PH do Tòa án sơ thẩm thu thập, giấy xác nhận của bà PH có trong hồ sơ và lời trình bày của bà PH vào ngày 17/6/2019 là có nhiều mâu thuẫn. Cụ thể bà PH xác nhận mua cá của bà Ng như sau: Ngày 18/9/2017, số lượng cá 62.250Kg, giá 29.000 đồng/Kg, mẫu 40 con/Kg, thành tiền 1.805.250.000 đồng; Ngày 25/9/2017, số lượng cá 28.850Kg, giá 27.000 đồng/Kg, mẫu 35 con/Kg, thành tiền 778.950.000 đồng; Ngày 30/9/2017, số lượng cá 58.260Kg, giá 26.000 đồng/Kg, mẫu 30 con/Kg, thành tiền 1.514.760.000 đồng (Bút lục số 266, 267). Đối chiếu với lời trình bày của bà PH vào ngày 17/6/2019 là không phù hợp. Bởi lẽ, bà PH cho rằng mặc dù có làm hợp đồng mua bán với bà Ng nhưng khi giao nhận cá đều tính theo giá dao động trên thị trường, không tính theo giá hợp đồng. Do lời trình bày của bà PH trước và sau không thống nhất, nên lời trình bày của bà PH không có cơ sở xác thực. Mặt khác, tại thời điểm tháng 9/2017 thì giá cá thực tế trên thị trường do bà Ng và phía bị đơn cùng xác nhận từ 40.000 đồng/Kg đến 50.000 đồng/Kg (Tùy theo size cá), nên không có lý do gì bà Ng mua của bà L giá từ 45.000 đồng/Kg đến 49.000 đồng/Kg lại bán cho bà PH giá từ 26.000 đồng/Kg đến 29.000đồng/Kg, vấn đề này phù hợp với giải trình của bị đơn tại phiên tòa cho rằng bà Ng không có mua bán thực tế với bà L, bà PH và không có thiệt hại thực tế xảy ra. Do các chứng cứ bà Ng chứng minh thiệt hại là không phù hợp, nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về vấn đề bồi thường thiệt hại.

Từ những căn cứ nhận định như trên, xét kháng cáo của bị đơn về việc không đồng ý bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi bị đơn pH bồi thường số tiền 2.900.090.000 đồng.

Góp ý