Nội dung sửa án:
(i) Công ty A thực hiện việc in tài liệu và nhận thù lao trên cơ sở đặt hàng của Doanh nghiệp B và chỉ chịu trách nhiệm về số lượng in, chủng loại giấy, quy cách, màu sắc… mà Doanh nghiệp B yêu cầu. Sau khi tài liệu được in xong, Doanh nghiệp B nhận tài liệu và thanh toán thù lao, các chi phí hợp lý cho Công ty A và chịu trách nhiệm đối với tính hợp pháp về quyền sở hữu trí tuệ của tài liệu đặt in. Như vậy, xét về bản chất, tranh chấp phát sinh giữa các bên được xác định là “Tranh chấp hợp đồng gia công”.
Cấp sơ thẩm xác định đây là vụ án về “Tranh chấp hợp đồng mua bán” là có sai sót. Tuy nhiên, trong vụ án này, việc xác định không đúng quan hệ pháp luật tranh chấp như nêu trên không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết nội dung vụ án, việc áp dụng pháp luật cũng như không ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đối với nhau.
(ii) Về lãi suất:
Tại phiên tòa, bị đơn cho rằng phương thức thanh toán là trả dần. Tuy nhiên, tại Biên bản xác nhận nợ ngày 18/01/2018 được lập giữa Công ty A với ông Võ T – Chủ Doanh nghiệp B có nội dung xác nhận số dư nợ tính đến ngày 31/12/2017 mà Doanh nghiệp B phải trả cho Công ty A là 9.428.098.221 đồng, không có thỏa thuận trả dần. Đồng thời, tại các Bản nghiệm thu thanh lý hợp đồng được lập giữa Công ty A với ông Võ T – Chủ Doanh nghiệp B từ năm 2018 đến năm 2020 đều có thỏa thuận thanh toán ngay sau khi nhận hàng. Do Doanh nghiệp B vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Công ty A yêu cầu trả lãi suất trên số tiền chậm thanh toán là có căn cứ.
Công ty A yêu cầu tính lãi suất của số tiền 8.685.447.921 đồng từ ngày 18/01/2020 đến ngày 30/6/2022 và lãi suất của số tiền 7.590.000 đồng từ ngày 18/03/2020 đến ngày 30/6/2022 theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường là 1.18%/tháng, tổng cộng là 3.015.591.678 đồng, thấy rằng:
Tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Trong trường hợp này, ông Võ T – Chủ Doanh nghiệp B đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán cho Công ty A như đã phân tích nêu trên. Do đó, Công ty A yêu cầu ông Võ T – Chủ Doanh nghiệp B phải trả tiền lãi trên số tiền 8.693.037.921 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật.
Về xác định lãi suất chậm trả, theo quy định tại Điều 11 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm, theo đó “Trường hợp hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh tại Điều 306 của Luật Thương mại năm 2005 thì khi xác định lãi suất chậm trả đối với số tiền chậm trả, Tòa án căn cứ vào mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường của ít nhất 03 (ba) ngân hàng thương mại (Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam,…) có trụ sở, chi nhánh hoặc phòng giao dịch tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Tòa án đang giải quyết, xét xử có trụ sở tại thời điểm thanh toán (thời điểm xét xử sơ thẩm) để quyết định mức lãi suất chậm trả, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Cấp sơ thẩm xác định 03 Ngân hàng có trụ sở trên địa bàn thành phố X gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kiên Long để xem xét áp dụng lãi suất chậm trả đối với số tiền chậm trả là phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, về xác định mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường là chưa chính xác.
Cụ thể, mức lãi suất nợ quá hạn của 03 Ngân hàng có trụ sở trên địa bàn thành phố X như sau: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam là 14,25%/năm, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam là 14,25%/năm và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kiên Long là 18,68%/năm.
Như vậy, mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường để tính lãi suất chậm trả trong trường hợp này là (14,25% + 14,25% + 18,68%) : 3 = 15,7%/năm.
Tiền lãi được tính như sau:
- Đối với số tiền 8.685.447.921 đồng, lãi suất tính từ ngày 18/01/2020 đến ngày 30/6/2022 (là 02 năm 05 tháng 12 ngày):
8.685.447.921 đồng x (02 năm 05 tháng 12 ngày) x 15,7%/năm = 3.340.857.542 đồng.
- Đối với số tiền 7.590.000 đồng, lãi suất tính từ ngày 18/3/2020 đến ngày 30/6/2022 (là 02 năm 03 tháng 12 ngày): 7.590.000 đồng x (02 năm 03 tháng 12 ngày) x 15,7%/năm = 2.720.888 đồng.
Tổng số tiền lãi là 3.340.857.542 đồng + 2.720.888 đồng = 3.343.578.430 đồng.
Như vậy, buộc ông Võ T – Chủ Doanh nghiệp B có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty A số tiền nợ gốc là 8.693.037.921 đồng 3.343.578.430 đồng tiền lãi, tổng cộng là 12.036.616.351 đồng.