Nội dung hủy án:
1. Khi tiến hành tố tụng, tòa án sơ thẩm đã xác định quan hệ pháp luật của vụ án là khiếu kiện quyết định hành chính. Khi xem xét đơn khởi kiện của bà T thấy rằng, ngoài khiếu kiện quyết định hành chính của Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh Y thì bà T còn yêu cầu Tòa án xem xét hành vi của Phòng TN&MT huyện Y về việc không làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình bà; xem xét bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của cán bộ Phòng TN&MT huyện Y và cán bộ xã P. Như vậy việc xác định quan hệ tranh chấp của tòa án sơ thẩm là thiếu sót. Như đã phân tích thì bà T khởi kiện và yêu cầu Tòa án xem xét đối với quyết định hành chính của Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh Y, hành vi hành chính của Phòng TN&MT huyện Y, hành vi hành chính của UBND xã P, như vậy cần phải xác định những cơ quan này là người bị kiện, tuy nhiên tòa án sơ thẩm chỉ xác định Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh Y và xác định Phòng TN&MT huyện Y, UBND xã P là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Như vậy việc xác định tư cách tố tụng đối với các đương sự không được tòa án sơ thẩm thực hiện chính xác, như vậy ảnh hưởng rất lớn đến quyền và nghĩa vụ của các đương sự khi tham gia tố tụng.
2. Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì Phòng TN&MT là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy quyền của cơ quan nhà nước cấp trên. Như vậy Phòng TN&MT huyện Y không có tư cách tham gia tố tụng, khi bà T khởi kiện cần xác định UBND huyện Y là người bị kiện mới chính xác. Ngoài ra, theo Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND ngày 20/10/2014 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc quy định về quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thì các đơn vị này có tư cách pháp nhân, tuy nhiên tại Quyết định số 09/2018/QĐ-UBND ngày 27/4/2018 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc sửa đổi bổ sung Quyết định số 46/2014/QĐ-UBND thì các Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai chỉ là đơn vị trực thuộc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Vĩnh Phúc. Như vậy theo quy định tại khoản 4 Điều 32 của Luật tố tụng hành chính thì khiếu kiện của bà T không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Y.
3. Đối với yêu cầu hủy Quyết định số 31/QĐ-VPĐKĐĐ, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, ngày 5/6/2017 Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Quyết định số 10/QĐ-VPĐKĐĐ về thu hồi và hủy bỏ quyết định nêu trên. Như vậy, đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không còn nhưng bà T vẫn yêu cầu Tòa án hủy quyết định trên là vô lý và không phù hợp với pháp luật nên không chấp nhận yêu cầu của bà T. Việc Tòa án cấp sơ thẩm nhận định và quyết định như nêu trên là không đúng với quy định tại Khoản 2 Điều 10 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao và quy định tại Khoản 1 Điều 193 của Luật TTHC năm 2015.
4. Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại của bà T, theo quy định tại Khoản 8 Điều 13 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009; Khoản 2 Điều 7 Thông tư liên tịch số 18/2015/TTLT-BTP-BTC-TTCP ngày 14/12/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Thanh tra Chính phủ, yêu cầu của bà T thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính. Do đó, Tòa án cần phải đánh giá tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện, xác định lỗi của các bên và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế xảy ra để có cơ sở xem xét, chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét các vấn đề nêu trên nhưng vẫn bác đơn khởi kiện của bà T với lý do các cơ quan chuyên môn của UBND huyện Y không có lỗi là chưa xem xét khách quan, toàn diện các vấn đề của vụ án, vi phạm quy định tại Điều 95, 194 Luật tố tụng hành chính.
5. Ngoài ra tòa án sơ thẩm giải quyết về án phí không đúng quy định của pháp luật bởi lẽ: Yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất của bà T thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước theo quy định tại Khoản 8 Điều 13 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009. Do đó, theo quy định tại Khoản 1 Điều 64 của Luật này và điểm f Khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số6 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bà T là người bị hại nên không phải chịu án phí. Cụ thể:
Tại Khoản 1 Điều 64 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước quy định:
“1. Khi thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của Nhà nước theo quy định của Luật này, người bị thiệt hại không phải nộp lệ phí, án phí và các loại phí khác”.
Tại điểm f Khoản 1 Điều 11 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định: “f. Các trường hợp khác không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí mà pháp luật có quy định”.