Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2023/HC-PT ngày 17/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định về việc khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

25/10/2024
Luật Nghinh Phong
75
0

Nội dung hủy án:   

(i) Mặc dù Đơn khiếu nại đề ngày 17/01/2022 của ông Q có tiêu đề là đơn khiếu nại nhưng đơn không thể hiện tên cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại, nội dung khiếu nại; nội dung đơn chỉ là ông Q yêu cầu Chủ tịch UBND xã M xem xét trường hợp của ông có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 76 hay không, nếu đủ điều kiện thì đề nghị hướng dẫn ông Q lập thủ tục để ông được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định, nếu không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì trả lời bằng văn bản cho ông Q biết.

Đối chiếu hình thức và nội dung đơn khiếu nại đề ngày 17/01/2022 của ông Q với các quy định nói trên thì đơn khiếu nại đề ngày 17/01/2022 của ông Q không phải là đơn khiếu nại nên không thuộc trường hợp phải thụ lý, giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định hình thức, trình tự, thủ tục ban hành Văn bản số 08 vi phạm quy định của Luật khiếu nại là không phù hợp với nhận định nói trên; đề nghị Tòa án nhân dân huyện P rút kinh nghiệm trong những lần xét xử tiếp theo.

(ii) Theo khoản 2 Điều 105 của Luật Đất đai năm 2013 “Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.” và điểm a khoản 2 Điều 70 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định về trình tự, thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu và đăng ký bổ sung đối với tài sản gắn liền với đất “Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam đề nghị đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ và thực hiện các công việc như sau: a) Trường hợp đăng ký đất đai thì xác nhận hiện trạng sử dụng đất so với nội dung kê khai đăng ký; trường hợp không có giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này thì xác nhận nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch.”. Văn bản số 08 có nội dung là “Việc sử dụng đất của ông không đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai” là không đúng quy định về thẩm quyền theo quy định nêu trên.

Mặc dù có sai sót trong việc nhận định trình tự, thủ tục ban hành Văn bản số 08 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử hủy Văn bản số 08 là phù hợp với nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm. Sau khi xét xử sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị về phần quyết định huỷ Văn bản số 08 của bản án hành chính sơ thẩm nên phần quyết định nói trên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

(iii) Ngày 24/11/2022, ông Q có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông về việc yêu cầu UBND xã M xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, lập hồ sơ đề nghị UBND huyện P cấp GCN thửa đất số 76 cho ông theo quy định và sửa phần án phí hành chính sơ thẩm vì ông thuộc trường hợp được miễn án phí.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Q có ý kiến rút một phần đơn khởi kiện về việc yêu cầu UBND xã M xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, lập hồ sơ đề nghị UBND huyện P cấp GCN thửa đất số 76 cho ông theo quy định và rút toàn bộ kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của người bị kiện là ông Hồ Văn V – Phó Chủ tịch UBND xã M, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Hồ Thị Bích N và bà Nguyễn Thị P có ý kiến đồng ý chấp nhận việc rút đơn khởi kiện nói trên của ông Q.

Việc rút một phần đơn khởi kiện và rút toàn bộ kháng cáo nói trên của ông Q và việc người bị kiện đồng ý chấp nhận việc rút đơn một phần đơn khởi kiện của ông Q là hoàn toàn tự nguyện, không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

(iv) Ông Dương Vinh Q sinh ngày 24/4/1960. Căn cứ quy định tại Điều 2 của Luật Người cao tuổi; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì ông Q thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn tiền án phí hành chính sơ thẩm và phúc thẩm.

Hoàn trả lại cho ông Q 600.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0008651 ngày 15/6/2022 và biên lai số 0008873 ngày 24/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Bình Định.

(v) Căn cứ quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 3 và các điểm b, c khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính, ông Q có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc UBND xã M xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, lập hồ sơ đề nghị UBND huyện P cấp GCN thửa đất số 76 cho ông Q nhưng với điều kiện phải có quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính phát sinh liên quan đến thẩm quyền xác nhận nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp sử dụng đất của UBND xã M và ông Q phải khiếu kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính trên tại Tòa án.

Đơn khiếu nại đề ngày 17/01/2022 của ông Q không có nội dung khiếu nại hành vi hành chính hoặc quyết định hành chính của UBND xã Mỹ Q về việc thực hiện hoặc không thực hiện hành vi xác nhận nguồn gốc đất theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 70 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai “Trường hợp đăng ký đất đai thì xác nhận hiện trạng sử dụng đất so với nội dung kê khai đăng ký; trường hợp không có giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này thì xác nhận nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch” và trong hồ sơ vụ án cũng không thể hiện ông Q đã nộp hồ sơ theo quy định để làm thủ tục đăng ký cấp GCN tại thời điểm làm đơn khiếu nại ngày 17/01/2022.

Từ những căn cứ nói trên có cơ sở để xác định tại thời điểm ông Q nộp đơn khởi kiện, chưa phát sinh hành vi hành chính hoặc quyết định hành chính của UBND xã Mỹ Q về việc thực hiện hoặc không thực hiện hành vi xác nhận nguồn gốc đất, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Q. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của ông Q về việc yêu cầu Tòa án buộc UBND xã M xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, lập hồ sơ đề nghị UBND huyện P cấp GCN thửa đất số 76 cho ông Q với quan hệ pháp luật là khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai là không phù hợp. Đáng lẽ ra, trong trường hợp này, Toà án cấp sơ thẩm phải đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của ông Q theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 123 và điểm h khoản 1 Điều 143 của Luật Tố tụng hành chính.

(vi) Mặc dù Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý và giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Q là hủy Văn bản số 08 và buộc UBND xã M phải xác nhận nguồn gốc sử dụng đất, lập hồ sơ đề nghị UBND huyện P cấp GCN đối với thửa đất số 76 cho ông nhưng chỉ xác định người bị kiện là Chủ tịch UBND xã M là bỏ sót người tham gia tố tụng vì UBND xã M là cơ quan có thẩm quyền xác nhận nguồn gốc đất.

(vii) Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai là không đúng nên Tòa án cấp phúc thẩm điều chỉnh lại quan hệ tranh chấp là khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.

Bài viết liên quan

Góp ý