Ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi cây xanh dọc vỉa hè đỗ gãy gây tai nạn cho người đi đường?

Ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi cây xanh dọc vỉa hè đỗ gãy gây tai nạn cho người đi đường?

Ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi cây xanh dọc vỉa hè đỗ gãy gây tai nạn cho người đi đường?

Luật sư cho tôi hỏi: Ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi cây xanh dọc vỉa hè đỗ gãy gây tai nạn cho người đi đường? Nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định như thế nào?

Trả lời:

1. Ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi cây xanh dọc vỉa hè đỗ gãy gây tai nạn cho người đi đường?

Căn cứ quy định Điều 604 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra như sau:

Điều 604. Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra

Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý phải bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra.”

Như vậy, theo quy định về bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý phải bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra.

Do đó trường hợp cây xanh dọc vỉa hè đỗ gãy gây tai nạn cho người đi đường thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hoặc người được giao quản lý phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra.

Trên thực tế, vụ gãy cây xanh ở Công viên Tao Đàn làm 2 người chết và 3 người bị thương vào sáng ngày 09/8/2024 đã khiến nhiều người dân lo lắng. Theo quy định trên thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý phải bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra trong trường hợp xảy ra sự cố cây xanh ngã, nhánh cây rớt, gây thương tích, chết người hoặc hư hỏng tài sản.

Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng: theo khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015, người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Sự kiện bất khả kháng được quy định tại Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015, theo đó đây là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

Như vậy, nếu cá nhân, đơn vị quản lý cây xanh đã làm mọi biện pháp an toàn như chặt, tỉa cành những cây có nguy cơ gãy đổ cao, trồng, chăm sóc và quản lý cây xanh… nhằm hạn chế tai nạn, tuy nhiên vì dông gió, bão lũ hay bất cứ lý do nào khác khiến cây, nhánh cây rớt, gãy gây thiệt hại thì sẽ không phải bồi thường. Nếu trường hợp cơ quan chức năng xác định đây là hậu quả chết người xuất phát từ sai sót trong công tác quản lý cây xanh thì đơn vị quản lý này phải có nghĩa vụ bồi thường theo pháp luật dân sự.

2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định như thế nào?

Căn cứ quy định Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại như sau:

Điều 585. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.

3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.”

Như vậy, nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định như sau:

- Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời.

Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

- Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.

- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

- Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

- Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.

Theo đó, mức bồi thường tổn thất tài sản bao gồm thiệt hại do tài sản bị mất, bị hủy hoại, bị hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại (Điều 589 Bộ luật Dân sự 2015).

Thiệt hại về sức khỏe được bồi thường chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị (Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015).

Thiệt hại về tính mạng được bồi thường các khoản như thiệt hại về sức khỏe cộng với chi phí hợp lý cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; các thiệt hại khác do luật định (Điều 591 Bộ luật Dân sự 2015).

Bên cạnh đó người chịu trách nhiệm bồi thường phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu.

Lưu ý: Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Trân trọng./.

Góp ý