
Nguyên tắc suy đoán vô tội là gì? Nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng như thế nào trong pháp luật Việt Nam hiện nay?
Luật sư cho tôi hỏi: Nguyên tắc suy đoán vô tội là gì? Nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng như thế nào trong pháp luật Việt Nam hiện nay?
MỤC LỤC
1. Nguyên tắc suy đoán vô tội là gì?
2. Nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng như thế nào trong pháp luật Việt Nam hiện nay?
3. Khi bị bắt quả tang thì ai là người có nghĩa vụ chứng minh vô tội hoặc có tội?
Trả lời:
1. Nguyên tắc suy đoán vô tội là gì?
Nguồn gốc của thuật ngữ “suy đoán” bắt nguồn từ tiếng Latin “praesumptino” hay trong tiếng Anh “presump” được hiểu là coi vấn đề, hiện tượng nào đó là đúng đắn cho đến khi chưa có lý do bác bỏ vấn đề, hiện tượng đó. Từ điển Longman nêu rõ trong lĩnh vực pháp luật, “presump” được hiểu là “chấp nhận một điều gì đó là đúng cho đến khi nó được chứng minh là không đúng”.
Trong tiếng Anh, thuật ngữ “suy đoán vô tội” được dịch từ “presumption of innocence” trong các tài liệu khoa học hay cụm từ “the right to bepresumed innocent” trong các văn kiện quốc tế về quyền con người. Cội nguồn của nguyên tắc này từ thời La Mã cổ đại khi Hoàng đế La Mã Justinian (thế kỷ VI tr.CN) ban hành một bản tóm lược Luật La Mã được gọi là “Digest of Justinian”, trong đó có quy định về nguyên tắc chung liên quan đến chứng minh thuộc về bên tố tụng (dân sự) “Ei incumbit probatio qui dicit, non qui negat”- có nghĩa là “chứng minh là công việc thuộc về anh ta, người khẳng định, chứ không phải là người phủ định”. Theo đó, trách nhiệm chứng minh thuộc về bên tố cáo và người nào đi kiện thì người đó chứng minh trước. Sau đó, các triều đại La Mã đã áp dụng nguyên tắc này trong quá trình xét xử hình sự và bắt đầu khẳng định nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội và một hệ quả tất yếu là bị cáo luôn được coi là vô tội.
2. Nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng như thế nào trong pháp luật Việt Nam hiện nay?
Ở nước ta hiện nay, nguyên tắc suy đoán vô tội được ghi nhận tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 như sau:
‘‘Điều 31.
1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai.
3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.”
Bên cạnh đó, nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội cũng đã được thể chế hóa tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau:
“Điều 13. Suy đoán vô tội
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”
Như vậy, khi chưa được chứng minh theo trình tự, thủ tục do luật quy định, chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội phải được coi là người không có tội.
Vì không được coi là người có tội nên các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được đối xử với người bị buộc tội như người có tội, kể cả trường hợp họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất như tạm giam.
3. Khi bị bắt quả tang thì ai là người có nghĩa vụ chứng minh vô tội hoặc có tội?
Bên cạnh nguyên tắc suy đoán vô tội, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cũng đã thể chế hóa một nguyên tắc cơ bản khác vô cùng quan trọng đó là nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Cụ thể tại Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định:
“Điều 15. Xác định sự thật của vụ án
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.”
Như vậy, từ nguyên tắc trên có thể thấy rằng trách nhiệm chứng minh vô tội hay có tội thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Người bị buộc tội hay người phạm tội quả tang có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trân trọng./.